Category: Netzero

  • COP30 vướng bài toán tài chính thích ứng bão lũ ngày càng nhiều

    COP30 vướng bài toán tài chính thích ứng bão lũ ngày càng nhiều

    Thời tiết cực đoan như bão lũ, hạn hán ngày càng dày đặc nhưng COP30 vẫn loay hoay tìm lời giải tài chính cho các nước đang phát triển.

    Khi Thales Bevilacqua Mendonca rời trang trại ở bang Parana để bay 5 tiếng lên Bắc Brazil dự Hội nghị lần thứ 30 của các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP30), thời tiết lạnh bất thường, chỉ 7 độ C.

    Ở Parana, mùa hè ngày càng nóng hơn, mùa đông lạnh hơn và hạn hán xuất hiện thường xuyên. Ngày 7/11, lốc xoáy đã tàn phá thị trấn Rio Bonito do Iguacu thuộc Parana, khiến 6 người thiệt mạng.

    Bevilacqua Mendonca, 35 tuổi, Quản lý quan hệ toàn cầu tại mạng lưới quốc tế hỗ trợ nông dân canh tác hữu cơ (INOFO) kỳ vọng các nhà đàm phán tại COP30 sẽ hành động nhiều hơn để hỗ trợ nông hộ nhỏ thích ứng với thời tiết cực đoan.

    Theo ông, nông hộ nhỏ cung cấp hơn một nửa lượng calo cho thế giới nhưng đang đối mặt với những hậu quả khí hậu nghiêm trọng nhất và chỉ nhận được chưa đến 1% nguồn tài chính cần thiết.

    “Các cuộc thảo luận về mục tiêu toàn cầu cần thực sự hướng đến chúng tôi”, ông nói. Theo đại diện INOFO, ngành nông nghiệp cần vốn để tiếp cận kiến thức và phát triển hệ thống cảnh báo sớm các hiện tượng thời tiết nguy hiểm.

    Nước lũ do bão Fung Wong dâng cao ở Pandan, tỉnh Catanduanes, Philippines ngày 9/11. Ảnh: AFP

    Khoảng 3,6 tỷ người – tương đương gần một nửa dân số toàn cầu, dễ tổn thương cao trước tác động khí hậu, từ hạn hán đến bão lụt. Giai đoạn 1995 – 2024, hơn 832.000 ca tử vong và gần 4.500 tỷ USD thiệt hại kinh tế trực tiếp do thời tiết cực đoan, theo Chỉ số Rủi ro Khí hậu của Germanwatch.

    Bà Lidy Nacpil, đại biểu đã tham dự 16 kỳ COP từ Philippines nói bão đã trở thành “bình thường mới” với nước này. Đặc phái viên Chủ tịch COP30 tại châu Phi Carlos Lopes nói các sự kiện thời tiết cực đoan xảy ra với tần suất cao hơn, với nhiệt độ thường xuyên lên tới 50 độ C ở Bắc Phi và lũ lụt hàng năm ở Đông Phi.

    Để giảm tác động của thời tiết cực đoan, toàn cầu cần khả năng thích ứng bằng cách đầu tư vào hạ tầng chống ngập, nông nghiệp chống hạn, hệ thống cảnh báo sớm và các cơ chế chuyển giao rủi ro như bảo hiểm. Tất cả đều cần nguồn tài chính quy mô lớn mà các nước kém và đang phát triển khó tự xoay xở.

    Theo Báo cáo Khoảng cách Thích ứng (Adaptation Gap) mới nhất của Liên Hợp Quốc – đánh giá sự chênh lệch giữa các biện pháp ứng phó biến đổi khí hậu đã triển khai và nhu cầu thực tế, các nước đang phát triển cần 310 – 365 tỷ USD mỗi năm để thích ứng.

    Tuy nhiên, năm 2023, họ chỉ nhận được 26 tỷ USD, thậm chí đi lùi so với mức 28 tỷ USD của 2022. Theo báo cáo, nhu cầu tài chính ở các nước đang phát triển cho thích ứng với biến đổi khí hậu cao hơn từ 12 đến 14 lần so với dòng vốn hiện tại.

    “Khoảng cách tài chính thích ứng đang ngày càng lớn và chi phí thích ứng vẫn rất cao. Việc thống nhất mục tiêu tài chính là điều quan trọng”, bà Anne Rasmussen, Quyền chủ tịch Liên minh các Quốc đảo Nhỏ (AOSIS) cho biết bên lề hội nghị.

    Bà ví dụ như bão Melissa tàn phá vùng Caribe tháng trước khiến nhiều quốc gia bị kéo lùi hàng chục năm. “Khi chúng ta vừa tái thiết xong và đứng vững trở lại, cơn bão khác lại đến, rồi hạn hán cực đoan, đợt nắng nóng mới”, bà nói.

    Tài chính để giúp các cộng đồng dễ tổn thương tăng khả năng chống chịu là một trong các chủ đề trọng tâm tại COP30. Tuy nhiên, thách thức đã nổi lên ngay từ khâu xác định các tiêu chí để phân bổ, chưa nói đến việc tăng huy động tiền ra sao.

    Thỏa thuận Paris 2015 từng thông qua Mục tiêu Toàn cầu về Thích ứng (Global Goal on Adaptation) nhằm đưa ra khung đo lường tiến độ nhưng đến nay vẫn chưa có cách theo dõi rõ ràng. Vì thế, tại hội nghị lần này, các quốc gia đang cố gắng thống nhất bộ 100 chỉ số dùng chung để đánh giá hiệu quả thích ứng khí hậu và xác định ai là nhóm dễ bị tổn thương nhất khi phân bổ tài trợ.

    Nhưng ngay tuần đầu COP30, bất đồng đã xuất hiện. Một số quốc gia lo ngại bộ chỉ số sẽ bị dùng làm điều kiện để nhận tài trợ, trong khi các nước khác muốn có hỗ trợ tài chính để triển khai việc báo cáo chỉ số.

    Sebastian Osborn, Quản lý chính sách toàn cầu tại Mercy For Animals, cho rằng bộ chỉ số nên đóng vai trò định hướng. Trong khi, Illari Aragon, Phụ trách chính sách khí hậu của Christian Aid lo ngại nó làm tăng bất bình đẳng hoặc dẫn đến những dự án kém hiệu quả.

    “Chúng tôi không muốn các chỉ số được thông qua trở thành lý do để tài chính rơi vào những dự án tệ hại, như đê chắn sóng ở Philippines từng chặn hệ thống thoát nước, gây hậu quả nghiêm trọng hơn”, bà nói.

    Mohamed Adow, Giám đốc tổ chức Power Shift Africa đánh giá bộ chỉ số có thể mang lại “ngôn ngữ chung” để đo lường tiến độ nhưng vấn đề cấp thiết vẫn là tiền. Ông cho rằng việc “giả vờ “đang tiến bộ bằng cách đồng ý một hệ thống đo lường có thể khiến các nước xao nhãng khỏi mục tiêu thực sự là huy động tài chính.

    “Xuất thân nghề chăn thả, tôi hiểu rằng dù có cân một con bò bao nhiêu lần đi nữa thì nó cũng không thể béo lên”, ông nói. Theo nghiên cứu do Viện Tài nguyên Thế giới (WRI) công bố hồi tháng 5, mỗi 1 USD đầu tư vào thích ứng biến đổi khí hậu có thể mang lại hơn 10,5 USD lợi ích kinh tế, xã hội và môi trường.

    Tại COP26 ở Glasgow năm 2021, các nước giàu từng cam kết tăng gấp đôi tài chính cho thích ứng, nhưng thỏa thuận sẽ hết hiệu lực trong năm nay. Nhóm 44 quốc gia kém phát triển nhất (LDC Group) đang kêu gọi tăng gấp ba tài chính thích ứng dạng viện trợ không hoàn lại lên ít nhất 120 tỷ USD vào năm 2030.

    Phương án thay thế cam kết Glasgow 2021 chưa được chốt. Điểm sáng gần nhất tại COP30 là Bỉ, Iceland, Ireland, Luxembourg, Tây Ban Nha, Thụy Điển công bố góp tổng cộng 58,5 triệu USD vào Quỹ Thích ứng (Adaptation Fund) quy mô 1,7 tỷ USD, chuyên viện trợ các dự án khí hậu nhỏ. Đức cũng cho biết sẽ đóng góp nhưng chưa cung cấp con số cụ thể.

    Với các nông hộ nhỏ, “mọi thứ đang cấp bách hơn bao giờ hết”, theo Bevilacqua Mendonca. Trang trại của ông áp dụng mô hình nông – lâm, kết hợp cây thân gỗ, cây bụi với cây trồng hoặc vật nuôi, nhằm cải thiện sức khỏe đất và năng suất. Ngoài ra, hệ thống này cũng giúp giảm phát thải nhờ khả năng hấp thụ carbon.

    “Chúng tôi có những cách sản xuất thực phẩm khác với mô hình nông nghiệp công nghiệp. Nông trại lớn mất lợi nhuận khi thiệt hại vì thiên tai, còn chúng tôi mất sinh kế lẫn mất an ninh lương thực”, ông nói.

    Phiên An ( theo Reuters, InfoAmazonia )

  • Trung Quốc chuyển đổi thần tốc sang xe tải điện

    Trung Quốc chuyển đổi thần tốc sang xe tải điện

    Xe tải điện dự kiến chiếm gần một nửa sản lượng bán ra ở Trung Quốc năm nay, từ mức không đáng kể 5 năm trước.

    Ôtô tải hạng nặng đóng góp đáng kể vào lượng phát thải toàn cầu và từng được xem là khó chuyển đổi sang điện, vì động cơ chạy dầu có ưu điểm hiệu suất cao. Tuy nhiên, tình hình đang thay đổi nhanh chóng ở Trung Quốc, nơi có đội xe tải lớn thứ hai thế giới sau Mỹ.

    Năm 2020, gần như tất cả xe tải mới bán ra ở nước này đều chạy bằng dầu diesel. Tuy nhiên, nửa đầu 2025, 22% doanh số đã là xe điện, tăng từ mức 9,2% cùng kỳ năm ngoái, theo nhà cung cấp dữ liệu vận tải đường bộ Commercial Vehicle World.

    Công ty nghiên cứu BMI (Anh) dự báo loại ôtô này sẽ chiếm gần 46% doanh số xe mới năm nay và 60% vào 2026. Xe tải điện được đón nhận bởi giá đã bắt đầu giảm và tiết kiệm chi phí trong quá trình vận hành.

    Giá mỗi chiếc ôtô tải điện hiện vẫn đắt gấp 2-3 lần xe dầu và hơn 18% loại chạy bằng LNG. Song hiệu suất năng lượng giờ cao hơn và chi phí thấp hơn có thể giúp chủ xe tiết kiệm khoảng 10-26% suốt vòng đời xe, theo Christopher Doleman, nhà phân tích tại Viện Kinh tế năng lượng và phân tích tài chính. “Khi nói đến ôtô tải hạng nặng, các chủ xe ở Trung Quốc rất coi trọng lợi nhuận”, ông nói.

    Tài xế đang sạc xe tải điện ở Bắc Kinh, ngày 14/11. Ảnh: AP

    Doanh số còn được thúc đẩy bởi các ưu đãi hào phóng của chính phủ, như chương trình thu cũ đổi mới. Chủ xe có thể nhận được tài trợ đến 19.000 USD khi thay thế ôtô tải cũ bằng loại mới hơn hoặc xe điện.

    Song song đó, hạ tầng trạm sạc cũng mở rộng. Tại các trung tâm logistics lớn như đồng bằng sông Dương Tử, trạm sạc chuyên dụng xe tải đã được lắp đặt dọc theo các tuyến đường vận chuyển hàng hóa quan trọng. Các thành phố như Bắc Kinh, Thượng Hải đã xây trạm sạc dọc theo cao tốc, có thể sạc xe tải trong vài phút.

    Vào tháng 5, nhà sản xuất pin xe điện lớn nhất thế giới CATL ra mắt hệ thống đổi pin tiết kiệm thời gian cho ôtô tải hạng nặng. Hãng cũng lên kế hoạch xây dựng mạng lưới đổi pin toàn quốc, bao phủ 150.000 km trên tổng số 184.000 km đường cao tốc Trung Quốc.

    Ngoài ra, chính sách cũng ủng hộ xe điện. Giới chức đang lên kế hoạch siết tiêu chuẩn khí thải với ôtô tải nhằm hạn chế ô nhiễm và đặt ra mục tiêu phát thải trung bình trên toàn bộ đội xe của nhà sản xuất. Điều này sẽ khiến các công ty chỉ dựa vào xe tải chạy nhiên liệu hóa thạch “gần như không thể” tuân thủ, theo Liuhanzi Yang, thành viên Hội đồng Quốc tế về giao thông sạch Bắc Kinh.

    Việc Trung Quốc chuyển đổi nhanh chóng sang xe tải điện có thể định hình lại nhu cầu năng lượng hóa thạch . Nước này dùng dầu diesel nhiều thứ hai thế giới sau Mỹ. Tuy nhiên, theo Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (IEA), tiêu thụ đã giảm còn 3,9 triệu thùng mỗi ngày vào tháng 6/2024, thấp hơn 11% so với cùng kỳ 2023, một phần do chuyển dịch sang LNG và điện.

    Công ty nghiên cứu Rhodium Group tại New York tính toán xe tải điện của Trung Quốc đang cắt giảm nhu cầu dầu mỏ tương đương hơn một triệu thùng mỗi ngày. “Sự trỗi dậy của ngành này ít được báo cáo trong quá trình chuyển đổi năng lượng toàn cầu, đặc biệt khi xét đến tác động tiềm tàng với dòng chảy thương mại dầu diesel khu vực”, Tim Daiss chuyên gia của APAC Energy Consultancy nhận định.

    Tương lai ngành vận tải hạng nặng cũng có thể thay đổi khi Bắc Kinh nhắm đến xuất khẩu xe điện chở hàng. Bill Russo, nhà sáng lập kiêm CEO công ty tư vấn Automobility tại Thượng Hải, cho biết các nhà sản xuất xe tải nước này đã giảm chi phí và đẩy nhanh quá trình sản xuất.

    Họ cũng làm chủ được hầu hết các linh kiện chính, từ pin đến động cơ và thiết bị điện tử. Ngành dịch vụ logistics rộng lớn và năng động của Trung Quốc cũng là môi trường thuận lợi cho các nhà sản xuất xe tải thử nghiệm và cải tiến sản phẩm.

    Theo McKinsey & Company, giai đoạn 2021-2023, xuất khẩu xe tải hạng nặng, gồm ôtô điện, của Trung Quốc sang Trung Đông và Bắc Phi tăng 73% mỗi năm và Mỹ Latinh khoảng 46%. Thị phần xe tải điện dự kiến tăng, dù hạ tầng sạc hạn chế có thể là thách thức.

    Tập đoàn Công nghiệp Nặng Sany (Trung Quốc) cho biết bắt đầu xuất khẩu xe tải điện sang châu Âu vào năm sau. Công ty đã xuất một số xe tải điện sang Mỹ, các nước châu Á như Thái Lan và Ấn Độ, UAE cùng nhiều quốc gia khác.

    Vào tháng 6, BYD đã khởi công xây dựng một nhà máy sản xuất ôtô tải và xe buýt điện tại Hungary. Động thái này đón đầu mục tiêu cắt giảm 90% lượng khí thải từ xe tải mới vào 2040 so với mức năm 2019 mà châu Âu đề ra.

  • Hãng hydro xanh của Pháp muốn rót nửa tỷ USD vào Việt Nam

    Hãng hydro xanh của Pháp muốn rót nửa tỷ USD vào Việt Nam

    Công ty hạ tầng hydro xanh HDF Energy (Pháp) mong muốn rót 500 triệu USD đầu tư các dự án năng lượng, giao thông tiềm năng tại Việt Nam.

    Thông tin được ông Trần Khánh Việt Dũng, Giám đốc HDF Energy tại Việt Nam nêu trong cuộc gặp Phó chủ tịch UBND TP HCM Bùi Xuân Cường chiều 20/11. Thành lập năm 2012 và có văn phòng đại diện tại Hà Nội từ 2022, HDF Energy chuyên phát triển các dự án sản xuất điện từ hydrogen với mức phát thải thấp đến không phát thải.

    Một hệ thống pin nhiên liệu hydro của HDF Energy. Ảnh: HDF Energy

    Tại Việt Nam, công ty đã hợp tác với các bộ ngành, các tập đoàn nhà nước về năng lượng tái tạo trong lĩnh vực điện, giao thông vận tải, hàng hải, lọc hóa dầu. Thời gian tới, ông Dũng cho biết muốn đầu tư 500 triệu USD vào các dự án tiềm năng.

    Riêng tại TP HCM, HDF Energy đề xuất phát triển tuyến buýt đường thủy dùng hydro xanh trên sông Sài Gòn, hợp tác phát triển dự án cảng xanh tại Cần Giờ, cung cấp năng lượng xanh tại Đặc khu Côn Đảo và nghiên cứu – phát triển tuyến đường sắt nội đô sử dụng hydro.

    Phó chủ tịch Bùi Xuân Cường ủng hộ HDF Energy tìm hiểu đầu tư tại TP HCM về chuyển đổi xanh giao thông, công nghiệp, môi trường. Thành phố cam kết tạo điều kiện thuận lợi và phối hợp với HDF Energy triển khai các dự án.

    Trụ sở tại Pháp, HDF Energy có văn phòng ở Mỹ Latin, Caribe, châu Phi và châu Á – Thái Bình Dương, với đội ngũ nhân sự khoảng 150 chuyên gia hydro từ hơn 35 quốc gia. Tập đoàn niêm yết trên sàn Euronext Paris năm 2021.

    HDF Energy đang phát triển danh mục dự án trị giá hơn 3 tỷ euro, tập trung phát triển hạ tầng hydro quy mô lớn và công nghệ pin cấp điện từ hydro, thúc đẩy nỗ lực giảm phát thải trong ngành năng lượng, vận tải biển và đường sắt.

  • Vị thế Trung Quốc giữa hội nghị khí hậu toàn cầu vắng Mỹ

    Vị thế Trung Quốc giữa hội nghị khí hậu toàn cầu vắng Mỹ

    Xe điện Trung Quốc được chọn làm phương tiện di chuyển chính thức, còn gian hàng quốc gia của họ chiếm trọn sảnh vào hội nghị khí hậu COP30.

    Đầu tuần này, Tổng thống Brazil Luiz Inacio Lula da Silva đã đến địa điểm tổ chức Hội nghị thượng đỉnh biến đổi khí hậu của Liên Hợp Quốc lần thứ 30 (COP30) tại Belém, trên chiếc SUV màu đen do hãng ôtô Trung Quốc BYD sản xuất.

    Tổng thống Brazil Luiz Inacio Lula da Silva (phải) cùng CEO BYD Vương Truyền Phúc (trái) tại sự kiện ra mắt xe năng lượng mới, ngày 13/11. Ảnh: BYD

    Theo hãng thông tấn CNS của Trung Quốc, COP30 năm nay chọn xe điện từ các thương hiệu nước này là BYD và Great Wall Motor làm phương tiện chính thức phục vụ sự kiện. Chúng được sử dụng để đưa đón các nguyên thủ quốc gia, đại biểu, cũng như du khách qua các con phố của Belém.

    Sự hiện diện của Trung Quốc tại các hội nghị khí hậu đã chuyển biến mạnh trong thập kỷ qua.

    10 năm trước tại COP21 (Pháp), nơi các nước ký kết Thỏa thuận khí hậu Paris, Trung Quốc chỉ có một gian hàng khiêm tốn với vài chỗ ngồi phục vụ hội thảo kỹ thuật và học thuật. Năm nay tại Belém (Brazil), gian hàng của họ chiếm vị trí đắc địa gần lối vào, cạnh gian của nước chủ nhà.

    Những tách cà phê nguyên chất bền vững, đồ chơi gấu trúc và quà lưu niệm có thương hiệu Trung Quốc níu chân người ghé thăm, để nghe tầm nhìn tương lai xanh bằng tiếng Anh từ các nhà điều hành công ty năng lượng tái tạo lớn nhất thế giới.

    “Chúng ta hãy tôn vinh di sản và thực hiện tầm nhìn Paris”, Meng Xiangfeng, Phó chủ tịch CATL của Trung Quốc, kêu gọi khán giả. CATL là gã khổng lồ sản xuất pin lớn nhất thế giới, cung cấp một phần ba lượng pin cho các hãng xe điện, gồm Tesla, Ford và Volkswagen. Đây là lần đầu tiên họ tổ chức hội thảo tại COP, nhằm tiếp cận các chính phủ và tổ chức phi chính phủ.

    Gian hàng Trung Quốc tại COP30, Belém, Brazil, ngày 14/11. Ảnh: Reuters

    Giữa tuần này, Li Gao, Thứ trưởng Bộ Sinh thái và Môi trường Trung Quốc nói rằng vị thế nhà sản xuất năng lượng tái tạo hàng đầu thế giới của nước này “mang lại lợi ích cho các quốc gia, đặc biệt là ở khu vực Nam Bán cầu”.

    Vị thế lãnh đạo khí hậu Washington từng nắm giữ nhiều năm, giờ thuộc về Bắc Kinh.

    “Nước chảy chỗ trũng, và ngoại giao cũng vậy”, Francesco La Camera, Tổng giám đốc Cơ quan Năng lượng Tái tạo quốc tế, nói. Trung Quốc đang lấp khoảng trống Mỹ để lại. Ông thêm rằng sự thống trị của họ trong lĩnh vực năng lượng tái tạo và xe điện củng cố vị thế nước này trong ngoại giao khí hậu.

    Từ sự hiện diện lặng lẽ 10 năm trước, Trung Quốc nay trở thành nhân tố trung tâm, phản ánh sự thay đổi trong cuộc chiến ứng phó biến đổi khí hậu kể từ khi Tổng thống Mỹ Donald Trump trở lại nắm quyền.

    Từ lâu vẫn hoài nghi về biến đổi khí hậu, ông Trump một lần nữa rút quốc gia phát thải khí nhà kính lớn nhất thế giới khỏi Thỏa thuận Paris. Năm nay, chính quyền ông từ chối cử phái đoàn cấp cao đại diện cho lợi ích của Mỹ tại hội nghị thượng đỉnh COP30.

    “Tổng thống Trump sẽ không đánh đổi an ninh kinh tế và quốc gia để theo đuổi mục tiêu khí hậu mơ hồ đang hủy hoại các quốc gia khác”, phát ngôn viên Nhà Trắng Taylor Rogers nói với Reuters.

    Tuy nhiên, các nhà phê bình cảnh báo việc Mỹ rút khỏi tiến trình đàm phán khí hậu làm mất đi lợi thế quý giá của nước này, đặc biệt khi Trung Quốc nhanh chóng thống trị các ngành công nghiệp xanh như năng lượng tái tạo và xe điện.

    Trong khi Mỹ vắng mặt, các diễn giả Trung Quốc đã phủ bóng hội nghị khí hậu Brazil. Ngoài CATL, China’s State Grid – công ty điện lực lớn nhất thế giới, và các gã khổng lồ trong lĩnh vực năng lượng mặt trời như Trina, Longi cũng có bài thuyết trình.

    BYD giới thiệu một đội xe hybrid cắm sạc tương thích với nhiên liệu sinh học được sản xuất tại nhà máy của hãng ở Bahia, Brazil, để sử dụng tại COP30.

    Chủ tịch COP Andre Correa do Lago và Giám đốc điều hành COP30 Ana de Toni đều ca ngợi vai trò đi đầu trong công nghệ năng lượng sạch của Trung Quốc.

    “Họ thể hiện vai trò lãnh đạo bằng cách thực hiện cuộc cách mạng năng lượng, và quy mô năng lực. Nhờ đó, giờ đây chúng ta có thể mua năng lượng ít carbon với giá cạnh tranh”, Giám đốc điều hành COP30 nói.

  • Trái đất sẽ nóng vượt ngưỡng an toàn trong bốn năm tới

    Trái đất sẽ nóng vượt ngưỡng an toàn trong bốn năm tới

    Trái Đất sẽ nóng vượt ngưỡng an toàn – 1,5 độ C so với thời tiền công nghiệp vào 2029, và dự báo tăng đến mức “khó sống” vào cuối thế kỷ này.

    Thông tin trên được nhóm 130 nhà khoa học công bố trong báo cáo Ngân sách carbon toàn cầu, ngày 13/11.

    Theo các nhà khoa học, các quốc gia cần thải dưới mức 170 tỷ tấn CO2 những năm tiếp tới để hạn chế Trái đất nóng vượt ngưỡng 1,5 độ C. Tuy nhiên, với tốc độ gây ô nhiễm hiện tại, họ cho rằng ngưỡng thải này sẽ sớm đạt trong bốn năm tới. Tức là, Trái đất sẽ nóng vượt ngưỡng an toàn vào 2029.

    Người dân đi bộ qua một phần sông Amazon đang hạn hán ở Santa Sofia, ngoại ô Leticia, Colombia, 20/10/2024. Ảnh: AP

    Hạn chế Trái đất nóng hơn 1,5 độ C so với thời tiền công nghiệp là mục tiêu đặt ra trong Thỏa thuận Paris, nhằm ngăn chặn cuộc khủng hoảng khí hậu. Theo các nhà khoa học, việc duy trì trên ngưỡng này trong thời gian dài kéo theo các hiện tượng thời tiết cực đoan, làm tăng số ca tử vong, ảnh hưởng đa dạng sinh học khi mực nước biển dâng cao.

    Với lượng khí thải CO2 tiếp tục tăng, GS Pierre Friedlingstein thuộc Viện Hệ thống Toàn cầu Exeter, người đứng đầu nghiên cứu, nói việc hạn chế mức nóng lên toàn cầu dưới 1,5 độ C không còn khả thi.

    Tương tự, trong báo cáo ngày 12/11, Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) thừa nhận mục tiêu trên đã “ngoài tầm với”, khi thế giới đang khát năng lượng và tiếp tục phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch.

    Còn trong báo cáo “Khoảng cách phát thải”, Liên Hợp Quốc dự báo nhiệt độ toàn cầu sẽ tăng 2,3-2,5 độ C trong thế kỷ này, nếu các chính phủ thực hiện đúng cam kết mới nhất của họ. Trường hợp các nước đi chệch hướng, nhiệt độ toàn cầu tăng khoảng 2,8 độ C, thậm chí vượt 3 độ C.

    15 năm làm việc cho báo cáo “Khoảng cách phát thải”, Joeri Rogelj – Giám đốc nghiên cứu tại Viện Grantham (Đại học Hoàng gia London), nói đây là năm đầu tiên họ không tìm ra được bất kỳ hướng đi nào khả thi về mặt kỹ thuật để giữ Trái Đất tăng nhiệt trong ngưỡng an toàn.

    Về hậu quả của tình trạng nhiệt độ toàn cầu tăng 2-3 độ C, Rogelj cho rằng tình hình “cực kỳ nguy hiểm” với mọi quốc gia, đặc biệt các nước đang phát triển. Họ phải gánh chịu những tác động tồi tệ nhất của cuộc khủng hoảng khí hậu trong bối cảnh có ít nguồn lực nhất để thích ứng.

    Ông chỉ ra những hiện tượng thời tiết và khí hậu cực đoan đã và đang diễn ra mà các quốc gia vẫn chưa thích nghi được, từ vụ cháy rừng chết người ở Mỹ, Canada và châu Âu, những đợt nắng nóng tàn khốc ở Pakistan đến lũ lụt ở Việt Nam. Những hiện tượng trên xảy ra trong bối cảnh nhiệt độ trung bình thế giới tăng 1,4 độ C so với thời tiền công nghiệp.

    “Dựa trên những bằng chứng chúng ta thấy, tôi thực sự không coi bất cứ kịch bản nào ở mức tăng nhiệt 2-3 độ C là có thể sống được”, Giám đốc nghiên cứu Viện Grantham nhận định.

    Đường Lê Duẩn (TP Huế) ngập trong lũ ngày 28/10. Ảnh: Võ Thạnh

    Nhiệt độ tăng trên 2 độ C có thể gây ra những ” điểm bùng phát ” khí hậu thảm khốc và không thể đảo ngược trong hệ thống, chẳng hạn sự sụp đổ của nhiều khối băng lớn dẫn đến mực nước biển dâng cao, nhấn chìm các thành phố.

    Daniel Swain, nhà khoa học khí hậu tại Đại học Nông nghiệp và Tài nguyên thiên nhiên California, đã xếp mức nóng lên 2-3 độ C là một “thảm họa”. “Thế giới ấm thêm 3 độ C sẽ chứng kiến mực nước biển cao hơn hiện tại vài feet, khả năng tồn tại của các siêu đô thị bị đe dọa nghiêm trọng”, Swain nói.

    Ông thêm rằng khối băng Greenland và Tây Nam Cực sẽ mất ổn định nghiêm trọng, đồng thời thế giới chứng kiến sự xuất hiện thường xuyên và lan rộng của các trận lũ lụt, hạn hán chưa từng có trong lịch sử.

    Bảo Bảo (theo Global Carbon Budget, CNN )

  • Thống đốc bang California phản đối chính sách phản khí hậu của ông Trump

    Thống đốc bang California phản đối chính sách phản khí hậu của ông Trump

    Thống đốc California Gavin Newsom chỉ trích việc đảo ngược chính sách khí hậu của Tổng thống Trump là “ngu ngốc”, khi dự COP 30.

    Dù chính quyền Tổng thống Mỹ Donald Trump xác nhận không cử quan chức nào tham dự hội nghị khí hậu COP 30 tại Brazil, Gavin Newsom – Thống đốc bang California – vẫn dẫn đầu một phái đoàn riêng lẻ tham dự sự kiện thường niên này của Liên Hợp Quốc.

    Chia sẻ trước báo giới ngày 11/11, ông Newsom chỉ trích chính sách của Tổng thống Donald Trump là “ngu ngốc” khi đảo ngược đường lối khí hậu của chính phủ liên bang. Đồng thời, Thống đốc khẳng định California tiếp tục ưu tiên công nghệ xanh.

    Gavin Newsom, Thống đốc California dự Hội nghị COP30, tại Belem, Brazil, ngày 11/11. Ảnh: Reuters

    Newsom là một trong 24 thống đốc tham gia Liên minh Khí hậu Mỹ, nhóm đại diện cho hơn một nửa dân số nước này, tuyên bố ủng hộ hành động ứng phó với biến đổi khí hậu.

    Nếu tính riêng California, họ sẽ là nền kinh tế lớn thứ tư thế giới, đưa bang này thành nhân tố chủ chốt trong các tác động đến thị trường và chính sách năng lượng. Thêm vào đó, Thống đốc bang California được cho là ứng cử viên hàng đầu cho đề cử tổng thống của Đảng Dân chủ năm 2028.

    Mặc dù Đảng Dân chủ từ lâu coi biến đổi khí hậu là một phần trọng tâm trong các ưu tiên chính sách, Newsom cho rằng cần thay đổi thông điệp để tiếp cận đa số người dân. Ví dụ, thông điệp nên đơn giản và tập trung vào chi phí sinh hoạt, những khó khăn mà các hộ gia đình Mỹ đang phải đối mặt do ảnh hưởng từ biến đổi khí hậu.

    “Biến đổi khí hậu có vẻ trừu tượng. Chúng ta cần nói chuyện bằng những thuật ngữ mà mọi người đều hiểu, liên quan đến con người, địa điểm, lối sống và truyền thống”, ông Newsom nói.

    Trước đó, cựu Tổng thống Joe Biden đã cố gắng quảng bá các chính sách khí hậu của mình như lợi ích cho việc làm và nền kinh tế, nhưng không được cử tri đón nhận. Sau đó, ông Biden đã rút lui khỏi chiến dịch tái tranh cử đầy khó khăn, còn bà Kamala Harris thất bại trước ông Trump trong cuộc đua và Nhà Trắng năm ngoái.

    Thống đốc bang Califonia cho rằng ông Trump đã sai lầm khi coi vấn đề biến đổi khí hậu là một ” trò lừa bịp ” và đấu tranh để thúc đẩy sử dụng nhiên liệu hóa thạch, gây ô nhiễm toàn cầu.

    Washington phớt lờ hội nghị thượng đỉnh COP 30. Ngược lại, California có chính sách biến đổi khí hậu tham vọng bậc nhất thế giới, gồm mục tiêu phi carbon hóa kinh tế vào năm 2045 và cấm bán ôtô xăng mới vào 2035.

    Thực tế, việc thiếu vắng chính quyền ông Trump tại COP 30 giúp nhiều người thở phào.

    Christina Figueres, cựu thư ký điều hành của Công ước khung Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC), nói việc Mỹ vắng mặt trong các cuộc đàm phán “thực ra lại là một điều tốt”.

    Tháng trước, kế hoạch thu phí khí thải tàu biển của Liên Hợp Quốc đổ bể bởi chính quyền ông Trump đe dọa cấm tàu cập cảng, hạn chế visa các nước ủng hộ phí trên. Xét hành vi này, ông Newsom nói sự hiện diện của Mỹ có thể là một mối đe dọa với hội nghị. Ông thêm rằng việc ông Trump vắng mặt tạo cơ hội cho các nhà lãnh đạo địa phương tham gia sâu vào việc đàm phán chính sách khí hậu.

    Bảo Bảo (theo Reuters, The Guardian )

  • Yêu cầu xử lý vấn đề ô nhiễm không khí tại Hà Nội TP HCM

    Yêu cầu xử lý vấn đề ô nhiễm không khí tại Hà Nội TP HCM

    Chính phủ được giao lập đề án xử lý tình trạng ô nhiễm không khí tại Hà Nội, TP HCM vào 2026, đồng thời điều chỉnh lộ trình áp dụng chuẩn khí thải xe máy và ôtô.

    Nội dung này được nêu tại Nghị quyết về phát triển kinh tế xã hội 2026 được Quốc hội biểu quyết thông qua, với trên 90,5% đại biểu tán thành, sáng 13/11.

    Theo đó, Quốc hội quyết nghị bảo vệ môi trường, hạn chế ô nhiễm là một trong số nhiệm vụ Chính phủ cần triển khai trong năm sau. Cụ thể, đề án xử lý tình trạng ô nhiễm môi trường, không khí tại Hà nội và TP HCM cần được xây dựng trong năm sau.

    Cùng với đó, Chính phủ được giao tiếp tục rà soát, điều chỉnh phù hợp lộ trình áp dụng chuẩn khí thải ôtô, xe máy đang lưu thông ở Việt Nam.

    Yêu cầu được Quốc hội đưa ra trong bối cảnh tình trạng ô nhiễm không khí có xu hướng gia tăng tại các thành phố lớn, nhất là Hà Nội và TP HCM. Riêng Hà Nội, quý cuối 2024 và tháng 1 năm nay, Thủ đô ghi nhận nhiều ngày có chỉ số chất lượng không khí (AQI) ở mức rất xấu. Một trong những nguyên nhân chính gây ô nhiễm không khí là hoạt động giao thông vận tải, gồm xe máy, ôtô đang lưu hành. Theo nghiên cứu, tỷ lệ góp phần ô nhiễm bụi từ hoạt động giao thông vận tải dao động 20% đến 60%.

    Các đại biểu xem xét thông qua Nghị quyết về phát triển kinh tế xã hội 2026, sáng 13/11. Ảnh: Media Quốc hội

    Để cải thiện chất lượng không khí, bảo vệ sức khỏe cộng đồng, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang soạn dự thảo lộ trình áp dụng quy chuẩn quốc gia về chuẩn khí thải xe máy, ôtô. Theo dự thảo, ôtô sản xuất trong giai đoạn 2017-2021 phải đạt tiêu chuẩn khí thải mức 3 (tương đương chuẩn Euro 3) từ đầu năm 2026, và mức Euro 4 khi lưu thông tại Hà Nội, TP HCM từ 2027. Xe sản xuất từ 2022 phải đạt chuẩn Euro 4 ngay đầu năm sau, và Euro 5 vào 2028 khi lưu thông ở Hà Nội, TP HCM, còn địa phương khác sau đó 4 năm.

    Cũng theo Nghị quyết, Quốc hội yêu cầu kiểm soát mục tiêu bảo vệ môi trường từ giai đoạn quyết định chủ trương đầu tư, sàng lọc loại trừ các dự án công nghệ lạc hậu, có nguy cơ ô nhiễm. Thêm vào đó, giải pháp đẩy mạnh quản lý rác nhựa , điện tử, chất thải công nghiệp, nguy hại cần được đẩy mạnh, song song với phát triển công nghiệp môi trường, dịch vụ bảo vệ môi trường và tái chế chất thải.

    Ngoài ra, việc xử lý ô nhiễm dòng sông, bờ sông cần được thực hiện gắn với xây dựng và quản lý đô thị xanh. Trước diễn biến khó lường của thiên tai, các cơ quan liên quan cần nâng cao năng lực dự báo, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, giảm thiểu thiệt hại và đảm bảo an toàn tính mạng cho người dân.

    Với khu vực dễ bị tổn thương như Đồng bằng sông Cửu Long, vùng trung du và miền núi phía Bắc, Quốc hội yêu cầu xây dựng chương trình phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu và phòng, chống lũ, sạt lở.

  • Quảng Trị chấp thuận đầu tư nhà máy điện gió hơn 9 000 tỷ đồng

    Quảng Trị chấp thuận đầu tư nhà máy điện gió hơn 9 000 tỷ đồng

    UBND tỉnh Quảng Trị vừa chấp thuận chủ trương đầu tư dự án nhà máy điện gió Halcom Hồng Đức, tổng vốn đầu tư gần 9.127 tỷ đồng.

    Quyết định được UBND tỉnh Quảng Trị ban hành ngày 6/11. Dự án này được triển khai tại 3 xã: Sen Ngư, Tân Mỹ và Trường Phú, với thời gian hoạt động 50 năm. Tỉnh sẽ chọn nhà đầu tư thông qua mời gọi sự quan tâm hoặc đấu thầu dự án.

    Dự án điện gió Halcom Hồng Đức có công suất thiết kế 200 MW, gồm 24 turbin (4,5-8,5 MW mỗi turbin), tổng mức đầu tư gần 9.127 tỷ đồng. Khi hoàn thành, dự án có thể cung ứng sản lượng hơn 549 GGWh mỗi năm. Diện tích đất dành khảo sát 1.606 ha, trong đó phần sử dụng đất 11,8 ha; mặt nước 58 ha và sử dụng đất tạm thời 4 ha.

    Điện gió được xây dựng ven biển tỉnh Quảng Trị. Ảnh: Đắc Thành

    Theo kế hoạch, việc lựa chọn nhà đầu tư sẽ hoàn thành trong 3 tháng kể từ ngày chấp thuận chủ trương đầu tư. Sau đó, nhà đầu tư có 3 tháng để hoàn tất các thủ tục chuẩn bị đầu tư và 6 tháng cho việc giao, cho thuê đất và mặt nước. Dự án dự kiến đưa vào hoạt động sau 15 tháng kể từ thời điểm được giao đất.

    UBND tỉnh giao Sở Công Thương chủ trì chọn nhà đầu tư. Sở Nông nghiệp và Môi trường cùng nhà đầu tư được chọn xác định phạm vi đầu tư, bảo đảm phù hợp quy định.

    Chính quyền 3 xã Sen Ngư, Tân Mỹ và Trường Phú cùng các đơn vị liên quan hỗ trợ, hướng dẫn nhà đầu tư trong quá trình thực hiện thủ tục.

    Hiện nay, Quảng Trị có 21 dự án điện gió đã phát điện và vận hành thương mại với tổng công suất 994,2 M. 11 dự án khác đã được cấp chủ trương đầu tư, đang triển khai với tổng công suất 424 MW. Trong đó, 3 dự án gồm Hướng Linh 4, Hải Anh và Tân Hợp có tổng công suất 108 MW dự kiến sẽ vận hành vào cuối quý III năm nay. Số còn lại dự kiến hoạt động trong năm 2026 và 2027.

  • Việt Nam cần giải bài toán thực thi để trở thành thiên đường năng lượng xanh

    Việt Nam cần giải bài toán thực thi để trở thành thiên đường năng lượng xanh

    Lĩnh vực năng lượng xanh của Việt Nam vừa đứng trước cơ hội bứt phá, vừa tiềm ẩn rủi ro chững lại, đòi hỏi phải có chính sách phát triển đồng bộ.

    Các chuyên gia tại tọa đàm ngày 6/11 của Đại học Fulbright Việt Nam, trong khuôn khổ buổi ký kết hợp tác giữa trường và Đại học Columbia của Mỹ tại TP HCM, cùng chia sẻ quan điểm Việt Nam có nhiều tiềm năng để hướng đến vị trí dẫn đầu khu vực trong lĩnh vực năng lượng xanh.

    Triển vọng này đang đối mặt với rủi ro bị chững lại vì các vướng mắc về chính sách, đầu tư và thực thi thiếu xuyên suốt. Tuy nhiên, các chuyên gia kỳ vọng thách thức sẽ được hóa giải nhờ “bản giao hưởng của các nghị quyết quan trọng” mà Việt Nam vừa ban hành nhằm định hình tương lai phát triển, với hai trong các trụ cột chính là công nghệ và năng lượng.

    Ông Thomas Vallely, Chủ tịch sáng lập Đại học Fulbright Việt Nam, Cố vấn cấp cao về Việt Nam tại Viện Đông Á Weatherhead thuộc Đại học Columbia, nhận định rằng Việt Nam là “thiên đường cho năng lượng xanh” và sở hữu những tiềm năng “có thể dễ dàng thống trị cơ chế năng lượng xanh của Đông Nam Á”. Tuy nhiên, ông cũng cho rằng Việt Nam vẫn chưa khai thác hết cơ hội này do thiếu chính sách phù hợp.

    Các diễn giả tại tọa đàm “Hướng tới Kỷ nguyên phát triển mới: Công nghệ, Giáo dục đại học và Tương lai của Việt Nam”, tại Đại học Fulbright Việt Nam ngày 6/11. Ảnh: Thanh Danh

    Tổng giám đốc ACEN Việt Nam Huỳnh Đình Hiệp cung cấp tại buổi tọa đàm những số liệu cụ thể về “bước tiến vượt bậc” của Việt Nam về năng lượng tái tạo. “Chúng ta từng có giai đoạn đi từ 0 megawatt lên 20.000 megawatt điện từ năng lượng tái tạo chỉ trong 4 năm. Điều đó chưa từng được thực hiện trước đây, ngay cả ở Trung Quốc”, ông Hiệp nói.

    Đà phát triển ấn tượng này đã không kéo dài. Ông Hiệp cho rằng một phần nguyên nhân đến từ cách vận hành nặng về truyền thống, vẫn dành nhiều tập trung hơn cho các nhà máy nhiệt điện than. Theo ông, tư duy hiện nay vẫn xem nhà máy điện than đơn giản và dễ quản lý hơn so với tìm kiếm giải pháp điều phối cùng lúc “20-30 nhà máy điện gió và điện mặt trời”, cũng như cân bằng giữa các biến động.

    Hệ quả là Việt Nam hiện “vẫn phụ thuộc nhiều vào than”, chiếm hơn 50% tổng sản lượng điện. Ông Hiệp cảnh báo điều này có thể khiến Việt Nam dễ bị tổn thương trước các biến động địa chính trị, chẳng hạn giai đoạn giá than từng tăng vọt từ 60 USD/tấn lên 400 USD/tấn khi xung đột Ukraine nổ ra.

    Các chuyên gia nhấn mạnh rằng để thực hiện tham vọng “nhảy vọt” về công nghệ theo Nghị quyết 57 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, Việt Nam cần thu hút các tập đoàn nắm giữ “công nghệ đám mây quy mô siêu lớn”. Ông Vallely chỉ ra rằng trên thế giới chỉ có 5 tập đoàn thật sự làm chủ công nghệ đám mây quy mô siêu lớn, gồm 3 tập đoàn ở Mỹ (Amazon, Microsoft, Google) và 2 tập đoàn của Trung Quốc (Tencent và Alibaba).

    Theo bà Annabel Lee, Giám đốc Chính sách Khu vực ASEAN của Amazon Web Services (AWS), các trung tâm dữ liệu cho công nghệ này đều đòi hỏi nguồn cung cấp điện ổn định, quy mô rất lớn. Ngành năng lượng tái tạo ở Việt Nam do đó cần một cơ chế rõ ràng để tham gia cung ứng, cũng như cần có “sự nhất quán và liên tục trong tầm nhìn” từ cấp trung ương đến địa phương.

    Nhà mát điện mặt trời ở thôn Liêm Thuận, xã Hồng Liêm, huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận. Ảnh: Việt Quốc

    Tiến sĩ Jonathan Pincus, giám đốc Trường Chính sách Công và Quản lý Fulbright (FSPPM), bổ sung rằng các dự án năng lượng xanh luôn đòi hỏi vốn đầu tư lớn và dài hạn. Hệ thống tài chính của Việt Nam cần cải cách thêm để giảm tình trạng “chủ yếu dựa vào ngân hàng và có tính ngắn hạn”, tăng mức độ tinh vi và linh hoạt để tài trợ cho sự đổi mới ở quy mô lớn.

    Ông Hiệp đánh giá cao Nghị quyết 70 vừa được ban hành về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045. Ông cho rằng văn kiện đã đặt năng lượng tái tạo vào phạm trù “an ninh quốc gia”, cho thấy Việt Nam nhận thấy tầm quan trọng ngày một cấp bách của lĩnh vực này.

    Tiến sĩ Pincus có cùng quan điểm, nhắc lại rằng Trung Quốc trong vài thập kỷ qua đã có những bước nhảy vọt trong huy động thị trường để phát triển năng lượng tái tạo cũng bằng cách đặt lĩnh vực này trong phạm trù an ninh quốc gia, giúp họ “bức tốc trước một cách rõ rệt”.

    Kết hợp với Nghị quyết 68, lần đầu tiên đặt khu vực tư nhân vào vị trí hàng đầu của tăng trưởng kinh tế, ông Hiệp cho rằng đây là những tín hiệu rất đáng mừng, tạo hy vọng rằng mọi thứ sẽ “bắt đầu thay đổi và tiến về phía trước theo đúng hướng”.

  • Biến đổi khí hậu nuôi siêu bão thế nào

    Biến đổi khí hậu nuôi siêu bão thế nào

    Bão hình thành trên biển khi nhiệt độ bề mặt đại dương đạt 27 độ C, bề mặt này ngày một nóng hơn bởi biến đổi khí hậu, dẫn đến lượng siêu bão tăng dần trong bốn thập kỷ.

    Hơn một tháng qua, biển Đông đón dồn dập bão Matmo, Fengshen, Kalmaegi. Chỉ riêng bão Kalmaegi, các tỉnh Gia Lai, Đắk Lắk, Quảng Ngãi tại Việt Nam ghi nhận 5 người thiệt mạng, 2.600 nhà hư hỏng. Còn Philippines ban bố tình trạng khẩn cấp, sau khi 140 người chết, 127 người mất tích.

    Nhà cửa bị tàn phá sau trận lũ lụt nghiêm trọng do bão Kalmaegi gây ra ở Talisay, Cebu, Philippines, ngày 5/11. Ảnh: Reuters

    Trong khi đó, cơn bão số 14, siêu bão Phượng Hoàng, đang dần hình thành, dự kiến vào biển Đông đầu tuần tới.

    Theo giới khoa học, biến đổi khí hậu không làm tăng số lượng bão, nhưng tác động tới cường độ bão. Cụ thể, bề mặt đại dương và khí quyển nóng lên là một trong những yếu tố thúc đẩy cường độ bão dữ dội hơn, với tốc độ gió lớn, lượng mưa nhiều cùng nguy cơ lũ lụt ven biển cao. Các siêu bão vượt thang đo có thể trở thành “hiện tượng bình thường mới” trong tương lai.

    Khi nhiệt độ bề mặt đại dương đạt ít nhất khoảng 27 độ C, không khí nóng và ẩm bốc lên từ mặt biển, tạo vùng áp thấp phía dưới. Không khí từ vùng lân cận với áp suất cao hơn sẽ di chuyển vào thay thế, tạo luồng gió. Luồng gió này sẽ di chuyển xoáy do ảnh hưởng của lực quay Trái Đất.

    Cách áp thấp nhiệt đới và bão hình thành. Nguồn: BBC

    Nguyên nhân chính xác của từng cơn bão khá phức tạp. Nhưng nếu nhiệt độ bề mặt đại dương vẫn ấm, độ cao của gió không thay đổi nhiều, bão sẽ hình thành và tiếp tục xoáy.

    Bão thường được phân loại theo tốc độ gió cực đại. Theo phân loại của Việt Nam, bão có cường độ gió cấp 8 trở lên, tốc độ 62-74 km mỗi giờ. Cấp 16 và 17 gọi là siêu bão, tức cấp độ cao và nguy hiểm nhất của bão, vận tốc gió trên 184 km mỗi giờ, gây thiệt hại vô cùng thảm khốc.

    Trên bình diện quốc tế, thang Saffir-Simpson phân loại bão thành năm cấp. Các cơn bão lớn, gồm siêu bão, được xếp từ cấp ba trở lên.

    Bão thay đổi ra sao trước biến đổi khí hậu?

    Việc đánh giá chính xác ảnh hưởng của biến đổi khí hậu lên từng cơn bão gặp nhiều thách thức do tính phức tạp của hệ thống bão này. Tuy nhiên, các nhà khoa học cho rằng nhiệt độ tăng cao ảnh hưởng đến cường độ bão theo nhiều cách.

    Ví dụ, nước biển ấm hơn đồng nghĩa với việc bão có thể hấp thụ nhiều năng lượng hơn, dẫn đến tốc độ gió cao hơn.

    Giới nghiên cứu từ tổ chức khoa học phi lợi nhuận Climate Central phân tích cường độ siêu bão Melissa quét qua Jamaica, Cuba cuối tháng trước. Họ chỉ ra trong hai ngày 25-26/10, sức gió tăng thêm 111 km/h, đạt 225 km/h (tức bão cấp 4). Một ngày tiếp theo, Melissa tăng thêm một cấp, đạt cấp cao nhất trong thang Saffir-Simpson. Jamaica là quốc gia thiệt hại nặng nề bậc nhất trong siêu bão, tới 30% GDP.

    Lý do Melissa “lớn như thổi” bởi cơn bão trôi chậm qua vùng biển ấm bất thường, với nhiệt độ cao hơn mức trung bình 1,4 độ C. Nhiệt độ nóng mặt biển cùng sức nóng chung của vùng khí hậu nhiệt đới làm tăng tốc độ gió cực đại. “Nguy cơ thiệt hại cũng tăng thêm 50%”, TS Daniel Gilford, nhà khoa học khí hậu tại Climate Central nói.

    Theo một nghiên cứu, tốc độ gió tối đa của các cơn bão từ năm 2019 đến năm 2023 đã tăng trung bình khoảng 19 dặm mỗi giờ (30 km/h) do sự nóng lên của đại dương.

    Bên cạnh đó, bầu khí quyển ấm hơn có thể giữ nhiều độ ẩm hơn, dẫn đến lượng mưa lớn hơn. Ngoài ra, mực nước biển dâng cao cùng địa hình địa phương cũng góp phần làm trầm trọng hơn ảnh hưởng của bão.

    Giới phân tích ước tính mực nước lũ từ cơn bão Katrina năm 2005, một trong những cơn bão gây hậu quả thảm khốc nhất ở Mỹ, cao hơn 15-60% so với kịch bản xảy ra trong điều kiện khí hậu năm 1900.

    Cùng ý kiến, các nhà khoa học từ Ủy ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu của Liên Hợp Quốc (IPCC) thêm rằng nhiệt độ Trái Đất nóng lên do con người, góp phần làm tăng lượng mưa và tỷ lệ bão cường độ mạnh. Cụ thể, tỷ lệ bão đạt cấp ba trở lên trong bốn thập kỷ qua cao hơn, tức chúng đạt sức gió ở các cấp cao nhất.

    Thêm vào đó, ở một số vùng, vị trí đạt sức gió cực đại của bão đã dịch chuyển. Tức là, các cộng đồng cư dân mới, không nhiều kinh nghiệm ứng phó, phải đối mặt với mối nguy hiểm này.

    Xét trên bình diện chung, một số nhà khoa học cho rằng cần phải “làm lại hoàn toàn” thang đo bão Saffir-Simpson, vốn ra đời từ năm 2010. Bởi, nhiều cơn bão thực tế đã vượt qua cấp cao nhất trong thang này (cấp 5). Những cơn bão vượt cấp thang đo, ví dụ bão Melissa, có thể gây ra thiệt hại lớn hơn nhiều cho những công trình được thiết kế để chịu được gió cấp 5.

    Tiến sĩ Michael Mann, khoa Khoa học Trái Đất và Môi trường tại Đại học Pennsylvania, lưu ý rằng những siêu bão cấp 6 sẽ là hiện tượng bình thường mới trước tác động ngày càng lo ngại của biến đổi khí hậu. Ông thêm rằng giới khoa học cần xem xét cách phân loại chúng trong tương lai.

    Tại Việt Nam, theo kịch bản biến đổi khí hậu cập nhật năm 2025, đến cuối thế kỷ này, bão mạnh đến rất mạnh có xu thế gia tăng. Lượng mưa lớn ngắn ngày tăng ở mức 20-40% so với kỳ cơ sở 1986-2005. Biến đổi khí hậu là tác nhân làm giảm tăng trưởng của Việt Nam trong bốn thập kỷ tới. Nếu không có các giải pháp thích ứng hiệu quả, nền kinh tế có thể thiệt hại 4,5% GDP nếu nhiệt độ tăng thêm 1,5 độ C.

    Bảo Bảo (theo BBC, Climate Central, Independent )