Category: Quốc tế

  • Sức ép bủa vây doanh nghiệp nhỏ tại Mỹ

    Sức ép bủa vây doanh nghiệp nhỏ tại Mỹ

    Doanh nghiệp nhỏ – xương sống của kinh tế Mỹ – cùng lúc đối mặt với chi phí tăng, khó vay vốn giá rẻ và thiếu lao động.

    Doug Scheffel (Massachusetts) sở hữu công ty gia đình có tên ETM Manufacturing. Ông đã sa thải khoảng 25% nhân viên hồi tháng 4, do thuế nhập khẩu của chính quyền Tổng thống Mỹ Donald Trump khiến nhu cầu linh kiện máy móc và tấm kim loại sụt giảm.

    “Nhiều doanh nghiệp đang thu hẹp hoạt động và tích trữ tiền mặt. Mọi thứ chưa bao giờ xấu đi thế này”, Scheffel cho biết trên CNN . Ông phàn nàn tình hình bất ổn khiến mình không thể lập kế hoạch kinh doanh cho năm tới.

    ETM Manufacturing cũng không thể tận dụng cơ hội tăng trưởng vì chi phí vay quá cao. Lãi suất trung bình cho khoản vay của doanh nghiệp nhỏ ở thành thị cuối năm ngoái đã vượt 7%, theo Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) tại Kansas. Tuy nhiên, nhiều công ty nhỏ phải vay với mức hơn 10%.

    Giá nhiều nhu yếu phẩm tăng cũng khiến một số nhân viên của ETM bận tâm hơn về tài chính cá nhân. “Hầu hết nhân viên của chúng tôi bị xao nhãng. Họ lo chuyện thức ăn và mua giày cho con. Việc kinh doanh có thể chịu ảnh hưởng nếu họ không tập trung làm việc”, Scheffel nói.

    Khoảng 25% hộ gia đình Mỹ hiện phải sống”‘paycheck to paycheck” – đồng nghĩa họ tiêu hơn 95% thu nhập cho nhu cầu thiết yếu như nhà ở và thực phẩm, theo ước tính của Bank of America.

    Bryan Pate – CEO công ty bán xe đạp và ván trượt PT Motion Works, tại San Diego. Ảnh: ElliptiGO

    Các công ty nhỏ là xương sống của kinh tế Mỹ, chiếm phần lớn tổng số doanh nghiệp, tuyển dụng một nửa lao động và đóng góp hầu hết tăng trưởng việc làm. Tuy nhiên, tâm trạng của họ hiện khá trái chiều. Họ vẫn kỳ vọng vào tương lai và hứng thú với cách AI hỗ trợ mình, nhưng cũng lo ngại vì cuộc chiến thương mại thay đổi liên tục và chi phí cao.

    Bryan Pate – CEO công ty bán xe đạp và ván trượt PT Motion Works tại San Diego cho biết doanh nghiệp của ông chật vật vì chi phí bảo hiểm y tế tăng quá nhanh. Đây là điểm bất lợi khi tìm cách thu hút lao động.

    Trong 20 năm qua, chi phí trung bình cho gói bảo hiểm y tế cá nhân của công ty dưới 50 nhân viên đã tăng 120%, theo Liên đoàn Doanh nghiệp Độc lập Quốc gia (NFIB) – tổ chức hỗ trợ các công ty nhỏ tại Mỹ. “Thật không thể tin nổi”, Pate nói, cho rằng đây là bất lợi mà doanh nghiệp nhỏ gặp phải so với các tập đoàn lớn.

    Chi phí tăng khiến áp lực với doanh nghiệp càng lớn, đặc biệt trong bối cảnh thuế nhập khẩu lên cao nhất 80 năm. Ước tính của The Budget Lab thuộc Đại học Yale công bố đầu tuần này cho thấy ông Trump đã nâng mức thuế trung bình với hàng nhập khẩu Mỹ lên 16,8% – cao nhất kể từ năm 1935.

    “Chúng tôi không biết ông ấy sẽ làm gì tiếp theo. Việc này quá mất thời gian và khiến nhiều người lo sợ”, Pate đề cập đến chính sách thuế liên tục thay đổi. Ông cho biết việc kinh doanh bị ảnh hưởng nặng bởi thuế, vì nhiều mẫu xe của ông được lắp ráp tại Đài Loan, nơi hàng nhập khẩu chịu thuế 20% khi vào Mỹ.

    Tổng thống Trump khẳng định thuế nhập khẩu sẽ mang sản xuất quay về Mỹ, nhưng nghịch lý là thuế này đang làm giảm một số việc làm tại đây.

    Pate vừa chấm dứt hợp đồng với 7 lao động lắp ráp tại San Diego và chuyển sang thuê nhân công ở Mexico. Ông cũng dự định tăng giá xe để bù chi phí thuế, nhưng lo ngại việc này làm giảm nhu cầu. “Đó là gánh nặng kinh tế. Về dài hạn, nếu thuế giữ nguyên như hiện tại, mô hình kinh doanh của chúng tôi sẽ không thể vận hành”, ông nói.

    Bên lề một hội thảo của Goldman Sachs tại Washington, Troy Rackley – CEO hãng công nghệ xử lý nước The Next Level of Performance cho biết ông buộc phải tăng giá một số sản phẩm vì thuế áp lên hàng nhập từ Australia và Trung Quốc. Rackley không cho rằng các nước xuất khẩu phải trả thuế và hy vọng Tòa án Tối cao vô hiệu hóa thuế của ông Trump.

    “Trung Quốc, Mexico và Canada không trả. Tôi mới là người trả. Tôi đã đóng thuế thu nhập, và giờ phải đóng thêm thuế cho những gì tôi mang về”, ông phàn nàn.

    Khari Parker – đồng sáng lập Connie’s Chicken and Waffles tại Baltimore không gặp vấn đề thuế, nhưng chật vật khi tìm vốn vay giá rẻ. “Chúng tôi phải chịu mức lãi rất cao, 20-30%”, Parker nói.

    Chính quyền ông Trump vẫn đang nỗ lực hỗ trợ doanh nghiệp bằng cách cấp vốn thông qua Cơ quan Quản lý Doanh nghiệp nhỏ (SBA). Từ khi Tổng thống Trump nhậm chức, SBA ước tính đã phê duyệt hơn 58.000 khoản vay trị giá trên 32 tỷ USD. Họ cũng bảo lãnh các khoản vay khoảng 44,8 tỷ USD cho doanh nghiệp trong năm tài khóa 2025.

    Niềm tin của doanh nghiệp nhỏ từng tăng mạnh sau khi ông Trump nhậm chức, sau đó giảm khi Tổng thống công bố kế hoạch thuế nhập khẩu. Tâm lý sau đó phục hồi và hiện nhỉnh hơn so với mức trung bình 52 năm.

    Một thách thức khác với Parker là nhân sự. “Tìm người làm rất khó. Chúng tôi không thể lúc nào cũng có phúc lợi hoặc lương cạnh tranh như doanh nghiệp lớn”, Parker nói.

    Với một số doanh nghiệp xây dựng, khó khăn này càng trầm trọng hơn vì Mỹ siết nhập cư. Antonio McMillion – Chủ tịch MFP Management & Construction tại Maryland cho biết công ty buộc phải thuê lao động với mức lương cao hơn, khiến chi phí nhân công của một số dự án tăng tới 40%. “Chúng tôi có thể chuyển phần tăng giá này xuống khách hàng, nhưng như thế dễ mất hợp đồng”, ông nói.

    Dù vậy, Pate vẫn tỏ ra lạc quan khi nhân viên của ông không lùi bước. “Tình hình rất dễ khiến mọi người chán nản. Nhưng không ai bỏ cuộc cả”, ông nói.

  • Ông Trump có thể hoãn áp thuế sản phẩm bán dẫn

    Ông Trump có thể hoãn áp thuế sản phẩm bán dẫn

    Vài tháng sau khi công bố kế hoạch áp thuế 100% với bán dẫn, Mỹ thận trọng hơn để tránh rạn nứt với Trung Quốc.

    Ngày 19/11, Reuters trích nguồn tin thân cận cho biết các quan chức Mỹ đang thảo luận về việc có thể không áp thuế nhập khẩu với sản phẩm bán dẫn. Vài ngày qua, thông điệp này đã được gửi đến các bên liên quan trong chính phủ và ngành công nghiệp.

    Một nguồn tin khác giải thích rằng chính phủ Mỹ thận trọng hơn để tránh gây rạn nứt mối quan hệ thương mại với Trung Quốc. Vì việc này có thể kéo theo áp thuế trả đũa, gây gián đoạn dòng chảy đất hiếm.

    Dù vậy, các nguồn tin cũng nhấn mạnh quyết định cuối cùng chưa được đưa ra. Mức thuế nhập khẩu 3 con số vẫn có thể bị áp bất kỳ lúc nào.

    Tổng thống Mỹ Donald Trump trong cuộc gặp lãnh đạo các quốc gia Trung Á tại Nhà Trắng ngày 6/11. Ảnh: AP

    Hồi tháng 8, Tổng thống Mỹ Donald Trump cho biết áp thuế 100% với các sản phẩm bán dẫn nhập khẩu, trừ doanh nghiệp sản xuất tại Mỹ hoặc cam kết làm điều này. Vài tháng qua, quan chức Mỹ vẫn khẳng định chính phủ sẽ sớm áp thuế. Tuy nhiên, họ vẫn đang thảo luận về thời điểm và các chi tiết khác của việc này.

    Người phát ngôn Nhà Trắng Kush Desai phủ nhận việc chính quyền thay đổi lập trường. “Chính quyền Tổng thống Trump cam kết tiếp tục sử dụng mọi công cụ hành pháp để mang sản xuất quay về Mỹ, đảm bảo an ninh kinh tế”, ông nói.

    Một quan chức Bộ Thương mại Mỹ cũng khẳng định “không có sự thay đổi chính sách nào liên quan đến thuế nhập khẩu áp với sản phẩm bán dẫn”. Dù vậy, cả hai không nói rõ khi nào chính quyền sẽ hoàn tất thuế này, cũng không đưa ra thêm chi tiết.

    Theo một thống kê năm ngoái, Mỹ sản xuất khoảng 12% chip bán dẫn trên toàn cầu, giảm so với mức 40% của 1990. Nhiều công ty lớn như Apple, Intel, TSMC… xây dựng nhà máy hoặc công bố các khoản đầu tư lớn cho sản xuất tại Mỹ. Gần nhất, hãng gia công chip lớn nhất thế giới TSMC sẽ xuất xưởng chip 2 nm tại một trong những nhà máy ở Arizona trong năm 2028-2030. Trước đó, công ty Đài Loan đã đầu tư khoảng 100 tỷ USD để xây nhà máy ở đây.

    Hiện tại là thời điểm nhạy cảm với chính quyền ông Trump. Nhà Trắng đối mặt với sức ép ngày càng tăng từ người tiêu dùng, khi mùa mua sắm cuối năm đến gần. Việc tăng thuế nhập khẩu với sản phẩm bán dẫn sẽ khiến giá hàng loạt đồ điện tử tăng vọt, từ smartphone đến tủ lạnh. Hồi tháng 9, chính phủ Mỹ từng cân nhắc kế hoạch áp thuế hàng điện tử dựa trên số lượng chip của từng sản phẩm.

    Tuần trước, Tổng thống Mỹ rút lại thuế đối ứng với hơn 200 loại thực phẩm. Dù vậy, ông vẫn khẳng định thuế không tác động đáng kể lên lạm phát. Từ thời cựu Tổng thống Joe Biden, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Mỹ vẫn duy trì trên mục tiêu 2% của Cục Dự trữ liên bang (Fed).

  • Thu nhập một năm của các tỷ phú đủ giúp cả thế giới thoát nghèo

    Thu nhập một năm của các tỷ phú đủ giúp cả thế giới thoát nghèo

    Tỷ phú tại các nền kinh tế hàng đầu thế giới kiếm thêm 2.200 tỷ USD năm ngoái, đủ đưa gần 4 tỷ người thoát cảnh nghèo khổ.

    Ngày 19/11, tổ chức từ thiện Oxfam thúc giục các nền kinh tế G20 thông qua sáng kiến của Nam Phi về giải quyết bất bình đẳng thu nhập và khối nợ toàn cầu. Nhóm này sẽ có cuộc họp thượng đỉnh ngày 22-23/11 tại Nam Phi.

    Oxfam cho biết các tỷ phú tại 19 quốc gia thuộc G20 ghi nhận tài sản tăng 2.200 tỷ USD năm ngoái. Tổng tài sản của họ hiện là 15.600 tỷ USD, theo Forbes . “Chỉ cần 1.650 tỷ USD cũng đủ giúp 3,8 tỷ người thoát khỏi cuộc sống dưới mức nghèo khổ”, Oxfam cho biết.

    Một người đàn ông vô gia cư ngồi bên đường ở Los Angeles, bang California hồi tháng 12/2024. Ảnh: Reuters

    Tổ chức này ủng hộ khuyến nghị mà nước chủ nhà Nam Phi sẽ đưa ra tại hội nghị tuần này. Đó là thành lập một Hội đồng quốc tế giải quyết bất bình đẳng, tương tự cách Liên Hợp Quốc đang hành động để ngăn toàn cầu ấm lên.

    “Nếu G20 lần này thành lập một Hội đồng quốc tế về bất bình đẳng, đây sẽ là bước tiến rất lớn trong việc giải quyết tình trạng khẩn cấp này”, Giám đốc Oxfam Amitabh Behar cho biết trong thông cáo.

    Oxfam kêu gọi người giàu trên thế giới “được đánh thuế một cách công bằng để góp phần chấm dứt nghèo đói và ứng phó với khủng hoảng khí hậu”. Tổ chức này chỉ trích Mỹ, vì theo đuổi “các chính sách mang tính phá hoại, từ thuế nhập khẩu đến giảm viện trợ”, làm tăng khoảng cách giữa người giàu và nghèo.

    Oxfam cũng kêu gọi hành động về khối nợ toàn cầu. Họ cho biết 3,4 tỷ người đang sống ở các nước chi nhiều tiền trả lãi hơn là cho giáo dục hoặc y tế.

    Nhóm G20 gồm 19 quốc gia cùng Liên minh châu Âu và Liên minh châu Phi, đại diện cho 85% GDP toàn cầu và hai phần ba dân số thế giới. Nam Phi kỳ vọng trong lần đầu tiên tổ chức tại châu Phi, hội nghị sẽ thúc đẩy giải quyết vấn đề của châu lục này và các nước đang phát triển, trước khi chức chủ tịch luân phiên được chuyển cho Mỹ năm tới.

  • Hàng không Trung Quốc chật vật

    Hàng không Trung Quốc chật vật

    Các hãng bay Trung Quốc chật vật tìm kiếm lợi nhuận giữa bối cảnh cạnh tranh khốc liệt và mạng lưới đường sắt cao tốc hiện đại chia sẻ thị phần.

    Báo cáo từ hãng sản xuất máy bay Embraer, Brazil cho biết, lượng hành khách tại Trung Quốc đã vượt mức trước đại dịch, giúp mục tiêu đạt 1,5 tỷ lượt khách mỗi năm vào năm 2035 trở nên khả thi. Tuy nhiên, ngành hàng không nước này lại rơi vào “nghịch lý khó xử” khi khách tăng nhưng lợi nhuận giảm do cạnh tranh gay gắt trên các chặng phổ biến buộc các hãng phải hạ giá vé. Bên cạnh đó, mạng lưới đường sắt cao tốc Trung Quốc, hiện đại hàng đầu thế giới, tiếp tục là lựa chọn hấp dẫn cho nhiều người di chuyển nội địa.

    Embraer cũng chỉ ra các hãng bay Trung Quốc vẫn tập trung phần lớn thị phần và công suất bay vào những tuyến trọng điểm đã bão hòa. Nhiều tuyến có hơn ba hãng cùng khai thác. “Điều này tạo ra cuộc chiến tần suất, áp lực giá vé và lợi nhuận biên giảm dần,” Embraer nhận định.

    Tiếp viên hàng không Trung Quốc đang phục vụ hành khách dùng bữa trên một chuyến bay. Ảnh: Punchng

    Thành phần đội bay cũng làm vấn đề thêm phức tạp. Hơn 80% máy bay thân hẹp của Trung Quốc được tối ưu hóa cho chở khách số lượng lớn và chặng bay ngắn – trung bình, khiến các thị trường ít khách hơn bị bỏ ngỏ.

    Đường sắt cao tốc là một lực cản khác. Báo cáo cho biết sự mở rộng nhanh chóng của mạng lưới đường sắt đã làm thay đổi căn bản thói quen di chuyển nội địa, đẩy các hãng hàng không vào cạnh tranh khốc liệt hơn trên những tuyến còn lại có khả năng sinh lời.

    “Ở nhiều chặng dưới 1.000 km, đường sắt mang lại lợi thế di chuyển nhanh từ trung tâm tới trung tâm, giá rẻ hơn và trong một số trường hợp, tần suất cao hơn, khiến các hãng bay mất dần khả năng định giá”, báo cáo viết.

    Dẫn chứng tuyến Quảng Châu – Vũ Hán như một “ví dụ kinh điển và đau đớn”, Embraer cho biết giá vé trên tuyến bay từng rất phổ biến này đã giảm “gần 40%” sau khi đường sắt cao tốc khai thác từ năm 2009 và giảm sâu kể từ đó.

    Giá vé nội địa trung bình giảm từ 848,6 tệ (120 USD) trong quý I/2024 xuống 766,9 tệ (108 USD) trong quý I/2025 – mức giảm 9,6% mà các nhà nghiên cứu dự báo sẽ làm biên lợi nhuận giảm thêm 8,35 điểm phần trăm.

    Báo cáo cũng lưu ý giá vé nội địa trong một thập kỷ qua tăng chậm hơn chỉ số giá tiêu dùng (CPI), đồng nghĩa các hãng bay gần như đang trợ giá cho hành khách khi phải tự gánh các chi phí vận hành tăng cao.

    “Giảm giá vé để kích cầu và lấp đầy ghế không thể bù lại phần doanh thu bị bào mòn”, Embraer cho biết.

    Để thoát khỏi vòng luẩn quẩn, Embraer khuyến nghị các hãng bay mở rộng sang những thị trường nội địa chưa được khai thác, đặc biệt tại các thành phố tuyến 3-4, nơi đô thị hóa và tăng trưởng khu vực đang tạo nên nhu cầu tiềm năng.

    Hãng xác định 797 cặp thành phố không có đường sắt cao tốc, mất hơn 4,5 giờ khi đi tàu hoặc hiện chưa có chuyến bay thẳng. Trong số này, 185 cặp thành phố có thể ngay lập tức hỗ trợ mở đường bay mới với ít nhất ba chuyến mỗi tuần, thu hút hơn 9 triệu hành khách trong năm 2025.

    Báo cáo cũng khuyến nghị các hãng phát triển mạng bay quốc tế ngắn, đặc biệt từ các thủ phủ vùng như Thành Đô, Vũ Hán, Nam Ninh và Côn Minh đến các điểm đến trong khu vực châu Á.

    Embraer cho rằng các hãng cần triển khai nhiều hơn dòng máy bay thân hẹp 100–150 chỗ và máy bay khu vực dưới 100 chỗ để giảm chi phí vận hành và khôi phục lợi nhuận.

    Năm ngoái, ngành hàng không dân dụng Trung Quốc ghi nhận lợi nhuận lần đầu tiên kể từ 2020. Toàn ngành giảm lỗ 20,6 tỷ tệ (2,8 tỷ USD) so với năm trước đó và lượng khách tăng 25%, theo Cục Hàng không Dân dụng Trung Quốc.

    Anh Minh (Theo SCMP, China Strategy )

  • Ông Trump bỏ thuế nhập khẩu 40 với thịt bò cà phê Brazil

    Ông Trump bỏ thuế nhập khẩu 40 với thịt bò cà phê Brazil

    Ngày 20/11, Tổng thống Mỹ Donald Trump ký sắc lệnh gỡ bỏ thuế bổ sung 40% áp lên thực phẩm Brazil, gồm thịt bò, cacao và các loại trái cây.

    Theo thông báo trên website của Nhà Trắng, việc gỡ bỏ thuế có hiệu lực từ ngày 13/11. Khoản thuế đã nộp sau thời điểm này có thể được hoàn lại.

    Trước đó, đầu tháng 7, ông Trump thông báo nâng thuế với hàng hóa Brazil từ 10% lên 50% vì giận dữ với việc nước này xét xử cựu Tổng thống Brazil Jair Bolsonaro. Ông Bolsonaro đầu năm nay bị cáo buộc âm mưu đầu độc người kế nhiệm Luiz Inacio Lula da Silva và ám sát Thẩm phán Tòa án Tối cao Alexandre de Moraes.

    Công nhân kiểm tra hạt cà phê tại một nông trại ở Brasilia, Brazil. Ảnh: Reuters

    Brazil là đối tác thương mại lớn thứ 15 của Mỹ, với tổng kim ngạch thương mại hai chiều đạt 92 tỷ USD năm ngoái. Brazil cung cấp tới một phần ba số cà phê tiêu thụ tại Mỹ – thị trường uống cà phê lớn nhất thế giới. Họ cũng ngày càng trở thành nhà cung cấp lớn về thịt bò, đặc biệt là loại để làm burger.

    Năm nay, giá bán lẻ cà phê tại Mỹ đã tăng 40% do thuế nhập khẩu và nhiều yếu tố thị trường khác, như sản xuất thiếu hụt do thời tiết. Giá thực phẩm tăng là yếu tố chính kéo tín nhiệm của ông Trump xuống mức thấp nhất kể từ khi ông trở lại nắm quyền, theo khảo sát của Reuters/Ipsos.

    Cuối tuần trước, Tổng thống Mỹ cũng ký sắc lệnh miễn thuế đối ứng với hàng loạt thực phẩm. Đó là cà phê, trà, trái cây nhiệt đới và nước ép trái cây, hạt cacao, gia vị, chuối, cam, cà chua, thịt bò và một số loại phân bón.

    “Hàng nghìn bao cà phê Brazil đang nằm trong các kho ngoại quan sẽ nhanh chóng được chuyển tới các cơ sở rang xay tại Mỹ”, Judith Ganes – Chủ tịch hãng tư vấn J. Ganes Consulting cho biết. Một số doanh nghiệp nhập khẩu đã lưu trữ hàng tại các kho ngoại quan ở Mỹ sau khi thuế với Brazil được công bố hồi tháng 7, chờ điều chỉnh. Số hàng hóa này chưa làm thủ tục nhập khẩu vào Mỹ, vì thế chưa phải nộp thuế.

    “Quyết định trên cho thấy hiệu quả của đàm phán thương mại”, Hiệp hội ngành thịt bò Brazil ABIEC cho biết. Tổ chức này khẳng định tiếp tục thúc đẩy tăng thị phần tại Mỹ. Tổng thống Brazil Luiz Inacio Lula da Silva hôm 20/11 cũng cho biết ông vui mừng khi mức thuế 40% bị gỡ bỏ.

  • Fed ngày càng chia rẽ về việc giảm lãi suất tháng 12

    Fed ngày càng chia rẽ về việc giảm lãi suất tháng 12

    Số liệu kinh tế thiếu thốn và không rõ ràng khiến một số quan chức Fed muốn giữ nguyên lãi suất, trong khi số khác ủng hộ giảm.

    Ngày 12/11, Chủ tịch Fed Boston Susan Collins cho biết bà nhận thấy “rào cản tương đối lớn” về khả năng tiếp tục giảm lãi suất trong ngắn hạn, do lo ngại lạm phát tăng tốc. Trong cả 2 phiên họp trước của Fed, Collins đều đồng ý giảm lãi.

    “Nếu không có bằng chứng cho thấy thị trường lao động yếu đi rõ rệt, tôi vẫn lưỡng lự với việc nới lỏng hơn nữa, đặc biệt khi số liệu lạm phát bị hạn chế do chính phủ đóng cửa”, Collins cho biết trong một bài phát biểu tại Boston. Bà cảm thấy việc giữ nguyên lãi suất ở mức hiện tại thêm một thời gian nữa “là phù hợp” để cân bằng rủi ro lạm phát và việc làm, trong bối cảnh môi trường nhiều biến động.

    Các bình luận của Collins cho thấy sự chia rẽ ngày càng sâu sắc của nội bộ Fed. Họ khó thống nhất về lần cắt giảm lãi suất kế tiếp. Đây là các thách thức Chủ tịch Fed Jerome Powell đã đề cập cách đây hai tuần. Khi đó, Powell cho biết việc giảm lãi tháng 10 được các quan chức ủng hộ, nhưng khả năng tiếp tục trong tháng 12 “vẫn chưa chắc chắn”.

    Bên ngoài trụ sở của Fed ở Washington (Mỹ). Ảnh: Reuters

    Trong báo cáo tuần này, Karim Basta – kinh tế trưởng tại III Capital Management cho biết Collins “chưa từng bất đồng với quyết định chung của Fed, nên điều này có vẻ đáng chú ý”. Basta nhận định “việc giảm lãi suất tháng 1/2026 có thể khả thi hơn tháng cuối năm nay, vì Fed có thêm thời gian xem xét dữ liệu”.

    Ngày 12/11, Tổng thống Mỹ Donald Trump ký dự luật ngân sách, giúp chính phủ Mỹ mở cửa trở lại sau hơn 40 ngày dừng hoạt động. Dù vậy, Nhà Trắng trước đó cho biết báo cáo việc làm và lạm phát tháng 10 có thể không được công bố.

    Trong cuộc họp tháng 10, Fed ghi nhận 2 ý kiến bất đồng với quyết định chung. Đó là Chủ tịch Fed Kansas Jeffrey Schmid – người muốn giữ nguyên lãi suất và thành viên Hội đồng Thống đốc Stephen Miran lại ủng hộ giảm lãi 50 điểm cơ bản (0,5%).

    Kể từ đó, một số thành viên Fed đã đưa ra các phát biểu thận trọng về khả năng tiếp tục điều chỉnh lãi suất. Chủ tịch Fed St. Louis Alberto Musalem lo ngại chính sách quá nới lỏng. Còn Phó chủ tịch Fed Philip Jefferson cho rằng họ cần đặc biệt thận trọng trong bối cảnh thiếu số liệu chính thức do chính phủ ngừng hoạt động.

    Một số quan chức khác, như Chủ tịch Fed Atlanta Raphael Bostic cũng muốn giữ nguyên lãi suất do rủi ro lạm phát. Trong khi đó, Chủ tịch Fed San Francisco kêu gọi có thái độ cởi mở.

    Tại sự kiện do Trường Kinh doanh Judge thuộc Đại học Cambridge tổ chức ngày 12/11, Miran cho rằng số liệu lạm phát trên 2% chỉ phản ánh quá khứ và không nên được coi là chỉ báo cho lập trường chính sách. Ông giữ quan điểm lạm phát đang hạ nhiệt nhờ chi phí nhà ở giảm dần.

    Mirran tiếp tục kêu gọi hạ lãi suất trong phiên họp kế tiếp. Trong cả 2 phiên họp trước của Fed, ông đều muốn giảm 50 điểm cơ bản thay vì 25 điểm như quyết định chung. Ông là thống đốc do Tổng thống Trump đề cử.

    “Giữ chính sách quá thắt chặt chỉ để phản ứng với số liệu thống kê, thay vì cân nhắc cung – cầu thực sự của nền kinh tế khiến thị trường lao động suy yếu. Nhiệm vụ của chúng tôi là phải tránh điều đó”, Miran nói.

  • Châu Âu sắp áp phí hàng giá trị thấp từ Trung Quốc

    Châu Âu sắp áp phí hàng giá trị thấp từ Trung Quốc

    Giới chức EU muốn đẩy nhanh việc áp phí với hàng nhập khẩu giá trị thấp ngay từ năm sau, thay vì 2028 như kế hoạch.

    Ngày 12/11, Cao ủy Thương mại EU Maros Sefcovic gửi thư kêu gọi các nước thành viên áp phí từ năm 2026 với đơn hàng giá trị thấp của các công ty như Temu hay Shein. Thời hạn này có thể sớm 2 năm so với kế hoạch trước đây của khối. Việc này nhằm kiềm chế làn sóng hàng nhập khẩu giá rẻ từ Trung Quốc.

    Hiện tại, các kiện hàng có giá dưới 150 euro (174 USD) không mất phí khi nhập khẩu trực tiếp vào 27 nước thành viên EU. Tuy nhiên, từ tháng 5, EU đã đề xuất bỏ quy định miễn trừ này và áp phí 2 euro với tất cả đơn hàng nhỏ từ năm 2028.

    Hàng hóa được chất lên xe tại Rome (Italy). Ảnh: Reuters

    Trong thư, ông Sefcovic thúc giục bộ trưởng tài chính các nước EU thống nhất một giải pháp tạm thời cho năm tới. “Đây là bước đi quan trọng, nhằm đảm bảo vị thế cho EU khi môi trường thương mại thay đổi nhanh”, ông giải thích, khẳng định mốc thời gian hiện tại không phù hợp với mức độ khẩn cấp của tình hình.

    “Chúng ta sẽ rất khó giải thích với các doanh nghiệp và người dân vì sao EU không thể nhanh chóng đưa ra một giải pháp”, ông nói.

    Dù vậy, bức thư không đề cập đến mức phí sắp tới là bao nhiêu. Sefcovic chỉ cho biết các bộ trưởng sẽ xây dựng “một mức phí hải quan tạm thời, đơn giản”.

    Trong cuộc họp ngày 13/11, các nước thành viên EU và Ủy ban châu Âu (EC) dự kiến thống nhất việc bỏ chính sách miễn thuế hiện tại và tìm giải pháp tạm thời cho năm sau. Trong dự thảo tuyên bố, các quan chức thống nhất “xây dựng giải pháp tạm thời, đơn giản, cho phép triển khai sớm nhất có thể vào 2026 để lấp khoảng trống trong giai đoạn chuyển tiếp”. Dù vậy, tuyên bố này vẫn có thể thay đổi.

    Kế hoạch dự kiến được đưa ra để phê duyệt trong cuộc họp bộ trưởng tài chính EU tiếp theo vào ngày 12/12. Hiện tại, một số quốc gia đã tự triển khai biện pháp riêng vì không muốn chờ đợi thêm, như Romania áp phí 5 euro với các gói hàng nhỏ nhập khẩu vào nước này.

  • Ông Trump ký sắc lệnh miễn thuế cho hàng loạt nông sản

    Ông Trump ký sắc lệnh miễn thuế cho hàng loạt nông sản

    Nhiều loại thực phẩm thiết yếu như thịt bò, cà chua, chuối sẽ được miễn thuế đối ứng khi nhập khẩu vào Mỹ.

    Ngày 14/11, Tổng thống Mỹ Donald Trump ký sắc lệnh miễn thuế đối ứng với hàng loạt thực phẩm. Đó là cà phê, trà, trái cây nhiệt đới và nước ép trái cây, hạt cacao, gia vị, chuối, cam, cà chua, thịt bò và một số loại phân bón.

    Nhiều sản phẩm trong danh sách miễn thuế đã ghi nhận mức tăng giá hai chữ số trong năm nay. Ví dụ, theo Chỉ số Giá Tiêu dùng (CPI) tháng 9, thịt bò xay đã tăng gần 14%, còn bò miếng tăng 17% so với năm ngoái. Đây là mức tăng mạnh nhất hơn 3 năm.

    Giá chuối tăng 7%, cà chua tăng 1%. Tổng cộng nhóm thực phẩm tiêu thụ tại gia đình tăng giá 2,7% trong tháng 9 so với năm ngoái.

    Thịt bò bán trong một gian hàng ở Washington (Mỹ). Ảnh: Reuters

    Sắc lệnh ngày 14/11 điều chỉnh phạm vi áp thuế đối ứng mà ông Trump công bố hôm 2/4, loại ra nhiều nông sản không thể sản xuất tại Mỹ. Ngày 5/9, Tổng thống Mỹ từng ký sắc lệnh điều chỉnh tương tự, miễn thuế đối ứng cho 45 nhóm hàng hóa như vàng, nickel, hóa chất,… Đây là các sản phẩm “không thể được trồng, khai thác và sản xuất tự nhiên ở Mỹ”, hoặc không sản xuất đủ để đáp ứng nhu cầu trong nước.

    Sắc lệnh miễn trừ mới nhất có hiệu lực từ ngày 13/11, đánh dấu bước ngoặt trong chính sách của ông Trump. Tổng thống Mỹ từ lâu vẫn khẳng định việc tăng mạnh thuế nhập khẩu không thổi bùng lạm phát.

    Việc này được công bố chỉ một ngày sau khi Mỹ đạt khung thỏa thuận thương mại với Argentina, Ecuador, Guatemala và El Salvador. Chính quyền Trump hôm 14/11 cũng đã đạt thỏa thuận với Thụy Sĩ. Các quan chức Mỹ dự kiến đạt thêm nhiều thỏa thuận khác trong năm nay. Việc này sẽ mở đường cho giảm thuế với hàng loạt sản phẩm khác.

    Vài tuần gần đây, ông Trump đề cập nhiều đến vấn đề chi phí sinh hoạt. Ông khẳng định giá cả tăng cao là do các chính sách của người tiền nhiệm, chứ không phải do thuế nhập khẩu.

    Các nhà kinh tế học thì cho rằng chi phí tăng cao một phần do thuế nhập khẩu. Giá cả sinh hoạt có thể tiếp tục tăng trong năm tới, khi các doanh nghiệp bắt đầu chuyển gánh nặng xuống người mua.

    Hà Thu (theo Reuters, White House)

  • Trùm bán lẻ Walmart thay CEO

    Trùm bán lẻ Walmart thay CEO

    Doug McMillon, nhà điều hành xuất sắc nhất của gã khổng lồ bán lẻ kể từ thời nhà sáng lập Sam Walton, sẽ rời vị trí CEO Walmart đầu năm tới.

    Reuters thông tin việc CEO Walmart từ nhiệm ngày 15/11, chấm dứt sự nghiệp lãnh đạo kéo dài hơn một thập kỷ của Doug McMillon tại tập đoàn bán lẻ Mỹ. Vị trí của McMillon (59 tuổi) sẽ được thay thế bởi John Furner (51 tuổi), Tổng giám đốc Walmart tại Mỹ, vào ngày 31/1/2026.

    Một cửa hàng Walmart tại Oceanside, California, Mỹ, ngày 15/5. Ảnh: Reuters

    Chuck Grom, chuyên gia phân tích tại Công ty tư vấn Gordon Haskett, nói thông báo thay CEO trên có thể khiến cổ đông lo lắng, bởi McMillon là CEO xuất sắc nhất Walmart kể từ thời nhà sáng lập Sam Walton.

    Trong khi đó, phía Walmart khẳng định việc thay vị trí lãnh đạo cao nhất đã được lên kế hoạch.

    McMillon gia nhập Walmart vào năm 1984, với vị trí cộng tác viên theo giờ. Ông đảm nhiệm các vai trò lãnh đạo tại cả ba bộ phận của Walmart gồm thị trường Mỹ, quốc tế và Sam’s Club (chuỗi bán lẻ dành cho khách hàng có thẻ thành viên). Ông thăng tiến qua nhiều cấp bậc để trở thành CEO Walmart đầu năm 2014, khi công ty bán lẻ đang nỗ lực đuổi theo gã khổng lồ Amazon trước nhu cầu thương mại điện tử bùng nổ.

    McMillon đã tận dụng mạng lưới cửa hàng rộng lớn sẵn có để tăng tốc độ giao hàng, tích hợp công nghệ tự động hóa tại các nhà kho, mở rộng kinh doanh thương mại điện tử và hoạt động quảng cáo để tăng doanh thu.

    Kể từ khi ông nhậm chức, thị giá của Walmart tăng hơn gấp ba lần, lên mức 817 tỷ USD. Doanh số thương mại điện tử toàn cầu tăng nhanh nhất, từ 10 tỷ USD năm 2014 lên hơn 120 tỷ USD trong năm tài chính vừa qua.

    McMillon sẽ tiếp tục làm cố vấn tại Walmart đến ngày 31/1/2027. Cổ phiếu của nhà bán lẻ Mỹ này đã tăng 323% kể từ khi ông tiếp quản, vượt trội so với chỉ số S&P 500 (chỉ số thị trường chứng khoán dựa trên 500 công ty vốn hóa thị trường lớn nhất nước Mỹ).

    Mức tăng của giá cổ phiếu Walmart và chỉ số S&P 500 trong giai đoạn McMillon giữ vị trí CEO. Nguồn: Reuters, LESG

    Theo giới phân tích, John Furner là lựa chọn kế nhiệm phù hợp về văn hóa doanh nghiệp, với lộ trình thăng tiến tương tự Doug. Furner gia nhập Walmart năm 1993, cũng bắt đầu với vị trí cộng tác viên theo giờ, sau đó điều hành Sam’s Club và Walmart Mỹ. Ông lên nắm quyền điều hành cao nhất trong bối cảnh Walmart bắt đầu áp dụng các công cụ trí tuệ nhân tạo (AI), công cụ thay đổi cách các nhà bán lẻ vận hành và tương tác với khách hàng.

    McMillon nhận xét người kế nhiệm “có khả năng đặc biệt để dẫn dắt công ty vượt qua giai đoạn chuyển đổi tiếp theo được thúc đẩy bởi AI”.

    Walmart được thành lập năm 1962, với các CEO gắn bó lâu dài. Furner là CEO thế hệ thứ sáu.

    Nhìn toàn ngành, doanh nghiệp bán lẻ Mỹ đối mặt với áp lực thuế quan, kinh tế bất ổn và chi tiêu tiêu dùng bấp bênh. Trong năm nay, nhiều doanh nghiệp gồm Kohl’s, Kroger và Target đã bổ nhiệm CEO mới.

  • Cuộc khủng hoảng thiếu thợ lành nghề ở Mỹ

    Cuộc khủng hoảng thiếu thợ lành nghề ở Mỹ

    Việc Ford không thể tuyển được 5.000 thợ máy dù trả lương 120.000 USD một năm cảnh báo tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng thợ lành nghề tại Mỹ.

    CEO Ford Jim Farley cho biết một người cần học 5 năm để nắm được kỹ năng tháo động cơ diesel khỏi xe tải Ford Super Duty. Tuy nhiên, thị trường lao động Mỹ không có đủ thợ.

    New York Post dẫn lời Jim ngày 14/11 cho biết mức lương đề nghị cho vị trí thợ máy tại Ford là 120.000 USD một năm, cao gấp đôi lương trung bình của công nhân Mỹ. Nhưng họ không tuyển được 5.000 người như kế hoạch.

    CEO Ford Jim Farley tại Triển lãm ôtô quốc tế Bắc Mỹ ngày 13/9/2023, Detroit, Michigan, Mỹ. Ảnh: Reuters

    Tình trạng thiếu hụt thợ máy tại Ford là một phần của cuộc khủng hoảng việc làm trong ngành sản xuất và các ngành cần thợ tay nghề cao.

    Tính riêng sản xuất ôtô, Hiệp hội Đại lý Ôtô Quốc gia ước tính ngành này thiếu hụt khoảng 37.000 kỹ thuật viên hàng năm. Cục Thống kê Lao động Mỹ (BLS) dự báo nhu cầu tuyển dụng kỹ thuật viên và thợ máy trung bình ở mức 67.800 mỗi năm cho đến 2033.

    Ngành hàng không cũng đang thiếu thợ bảo dưỡng máy bay trầm trọng. Nói với Fortune , Jason Pfaff, Giám đốc điều hành của Viện Bảo dưỡng Hàng không (AIM), cho biết lượng thợ máy được đào tạo và cấp chứng chỉ đáp ứng được một nửa nhu cầu nhân lực.

    Tính đến tháng 8, Cục Thống kê Lao động ước tính hơn 400.000 vị trí trong ngành sản xuất còn trống, dù tỷ lệ thất nghiệp là 4,3%.

    Một phần nguyên nhân nằm ở nhân khẩu học. Thế hệ Baby Boomers (những người sinh trong giai đoạn 1946-1964) đang dần nghỉ hưu, còn thế hệ millennials (sinh trong giai đoạn 1981-1996) và thế hệ Z (sinh năm 1997-2012) đang chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong lực lượng lao động.

    Người điều hành Ford đổ lỗi cho thế hệ hiện tại không đầu tư vào giáo dục thế hệ kế tiếp. Vị CEO lấy ví dụ về ông của mình, nhân viên số 389 tại Ford, một người tay trắng, không học đại học, gây dựng cuộc sống trung lưu cho gia đình từ vị trí công nhân.

    Thực tế, Jameson, con trai 17 tuổi của CEO Ford, đã làm công việc thợ máy vào mùa hè qua. Jim, vị CEO nhận thù lao gần 25 triệu USD năm ngoái, nói con trai ông thích công việc đã làm và “không hiểu sao cần phải học đại học”. Ông thêm rằng nếu con trai theo đuổi công việc tay chân, ông sẽ vui mừng với tư cách một người cha.

    Trong nhiều năm qua, một lộ trình thông thường của người trẻ là kết thúc bốn năm đại học và ra trường sẵn việc. Rich Garrity, thành viên quản trị của Hiệp hội các Nhà sản xuất Mỹ, lưu ý rằng lộ trình nghề nghiệp không nhất thiết phải như vậy. “Trong nhiều trường hợp, hướng đi phù hợp hơn là học một trường cao đẳng kỹ thuật hoặc trường nghề”, Garrity nói.

    Cũng như CEO Ford, Garrity, người cũng là Giám đốc bộ phận kinh doanh tại công ty sản xuất máy in 3D Stratasys, bi quan về thị trường lao động “chân tay” tại Mỹ. Ông nhấn mạnh thị trường Mỹ không chỉ thiếu thợ về số lượng, mà còn yếu về kỹ năng có thể đáp ứng nhu cầu sản xuất trong thời đại mới.

    “Rất nhiều vị trí tuyển dụng ngày nay không chỉ là công việc tay chân ngày xưa, mà cần sự kết hợp giữa kỹ thuật thủ công và kỹ năng số”, Garrity nói. Ông thêm rằng các trường dạy nghề và cao đẳng cộng đồng vẫn chưa theo kịp tốc độ phát triển công nghệ, đặc biệt với các ngành mới như in 3D, robot, tự động hóa, pin xe điện.

    Một dấu hiệu lạc quan là số lượng tuyển sinh vào các trường dạy nghề tăng vọt lên 16% vào năm ngoái, mức cao kỷ lục từ năm 2018. Tính từ năm 2020, theo National Student Clearinghouse, số lượng tuyển sinh vào các trường đào tạo chuyên ngành thương mại hệ hai năm đã tăng gần 20%.

    Riêng trong lĩnh vực bảo dưỡng hàng không, AIM đã chứng kiến lượng đơn đăng ký của Gen Z tăng khoảng 40% trong hai năm qua.

    Trong khi đó, Ford nỗ lực tăng lương để vị trí công việc của họ hấp dẫn hơn trong mắt ứng viên. Hãng sản xuất ôtô cam kết tăng lương 25% trong bốn năm theo thỏa thuận mới nhất với Liên đoàn Công nhân Ôtô (UAW). Tuy nhiên, việc tăng lương là chưa đủ khi khoảng cách cung – cầu quá lớn.

    “Lực lượng này cần nhiều kỹ năng ở các mức độ khác nhau. Chúng tôi không có nguồn lao động sẵn sàng và đáp ứng được những kỹ năng này”, Garrity nói.

    Bảo Bảo (theo New York Post, Fortune )