Blog

  • Vietnam Airlines đưa mùi hương vào chiến lược thương hiệu

    Vietnam Airlines đưa mùi hương vào chiến lược thương hiệu

    © Copyright 1997 – VnExpress.net, All rights reserved

    ® VnExpress giữ bản quyền nội dung trên website này.

    Vietnam Airlines dùng hương sen, cốm, trà phối thành mùi hương Nhã với đa phiên bản, gợi cảm xúc trên hành trình bay, hướng đến tiêu chuẩn hàng không 5 sao.

    Xuyên suốt gần 30 năm hình thành và phát triển, Vietnam Airlines định vị trở thành “đại sứ thương hiệu quốc gia trên bầu trời”, thể hiện qua biểu tượng bông sen, đồng phục áo dài của
    nữ tiếp viên hay những món ăn thuần Việt trên khoang bay.

    Mùi hương độc quyền Nhã là dấu ấn mới nhất trong hành trình này, được hãng Hàng không Quốc gia Việt Nam áp dụng trên các đường bay trọng điểm và một số phòng khách Bông sen vàng, từ
    ngày 1/11. Nốt hương mở ra chương mới trong chiến lược chinh phục tiêu chuẩn 5 sao quốc tế của Vietnam Airlines, nơi mọi giác quan sẽ cùng kể một câu chuyện: Việt Nam.

    Mùi hương là một trong những yếu tố được các hãng bay hàng đầu thế giới chú trọng. Nhưng rất ít trong đó, mùi hương được lấy cảm hứng từ bản địa và được Vietnam Airlines lựa chọn điều chế hoàn toàn bởi một nghệ sĩ người bản địa. Điều này tạo bản sắc khác biệt cho Vietnam Airlines trong xu thế Emotional Branding – biến cảm xúc dân tộc thành trải nghiệm quốc tế.

    Ý tưởng về Nhã được ban lãnh đạo Vietnam Airlines ấp ủ từ năm 2021, nhưng toàn đội ngũ đã tập trung thực hiện trong hơn một năm nay, thông qua hợp tác nghệ sĩ mùi hương Rei Nguyễn. Khởi nguồn từ ý niệm ban đầu của hãng về một “mùi hương mang phong thái thanh lịch, nhã nhặn”, Rei Nguyễn đã áp dụng phương pháp luận đặc thù của ngành chế tác hương thơm, cùng Vietnam Airlines định hình mùi hương thương hiệu. Nghệ sĩ người Việt có nhiều năm tu nghiệp tại Nhật Bản, chuyên ngành chế tác mùi hương cho biết, đội ngũ ban lãnh đạo Vietnam Airlines và cô đã mất nhiều tháng chỉ để có cái nhìn rõ ràng về mùi hương – biến một thứ vô hình trong tưởng tượng trở nên cụ thể và có thể mô tả.

    Một buổi họp của đội ngũ phát triển dự án mùi hương Nhã tại Vietnam Airlines.

    “Tôi có rất nhiều buổi làm việc cùng toàn bộ đội ngũ trong dự án, bao gồm những lãnh đạo cấp cao tại Vietnam Airlines. Hàng trăm trang thông tin được chúng tôi thực hiện cùng nhau để
    thống nhất cách hiểu và cách hình dung Nhã”, Rei Nguyễn kể về giai đoạn khởi tạo dự án. Ý niệm về mùi hương rất vô hình nhưng sẽ mang đến sự rung động trong tâm hồn khi ngửi thấy:
    những mảnh ký ức với vô vàn hình ảnh ùa về trong tâm trí của riêng mỗi người. “Đó sẽ là một mùi hương ‘có hồn’ cho thương hiệu”, nữ nghệ sĩ nhấn mạnh.

    Cách mà hương Nhã của Vietnam Airlines ra đời được ví như hành trình đi tìm chìa khóa cho những căn phòng trong một tòa lâu đài. Sen – biểu tượng của Hãng hàng không Quốc gia Việt Nam
    là nốt hương chủ đạo, cũng là mảnh ghép đầu tiên hình thành nên chiếc chìa khóa này. “Trong quá trình chế tác Nhã, Rei đã ở cạnh sen suốt nhiều ngày để hiểu được ‘tính cách’ của loài
    hoa này, từ lúc bông đẫm sương sớm, khi nắng lên cho đến khi chiều buông xuống”, nghệ sĩ kể.

    Nghệ sĩ Rei Nguyễn trong quá trình chế tác mùi hương Nhã.

    “Khi đứng trước thiên nhiên hùng vĩ nơi Tam Cốc (Ninh Bình), tôi như cảm nhận tiếng núi sông nghìn năm vọng về. Trong khoảnh khắc đó, tôi quyết định chọn sen Tam Cốc sẽ là mùi hương
    chủ đạo cho toàn bộ dự án, cũng là địa danh ghi đậm dấu ấn Việt Nam trong lòng du khách quốc tế”, Rei nói.

    Nhưng không dừng lại ở sen Tam Cốc, với đề bài của Vietnam Airlines, hương thơm còn phải “kể” được câu chuyện của khắp các vùng đất tại Việt Nam. Bởi thế, ngoài hương sen dịu dàng, bản
    giao hưởng của mùi hương được Rei Nguyễn thêm vào chút sâu lắng của trà mạn Thái Nguyên, hương cốm tươi non làng Vòng (Hà Nội), hương bưởi Thanh Trà đậm chất Huế, chút thanh mát của
    bưởi Đoan Hùng đất tổ Phú Thọ hay quýt Lai Vung từ vùng Đồng Tháp Mười… Kết hợp với sen, các biến thể mùi hương sẽ gợi lên ký ức cho mỗi du khách trong từng không gian mà Nhã được đặt
    vào.

    Khác với nhiều thương hiệu chỉ có một loại hương, Nhã có đến ba biến thể riêng biệt, dành cho phòng chờ Bông sen vàng, khoang bay và buồng vệ sinh. Tại phòng chờ, hương sen kết hợp với
    trà đen mang lại cảm giác trang trọng và sự chào đón. Trên khoang bay, tầng hương được nghệ sĩ điều chỉnh với sắc sen nhẹ nhàng, gợi cảm giác thư giãn và giảm lo âu. Trong buồng vệ
    sinh, hương sen được phối với quýt Lai Vung, mang lại tầng hương tươi mát và cảm giác sạch sẽ.

    “Nốt hương sen trong mỗi không gian đều được tùy chỉnh, nhằm thể hiện sự tinh tế của thương hiệu. Dù khác nhau, ba biến thể đó vẫn kể chung một câu chuyện, bởi sen là sợi chỉ đỏ xuyên
    suốt toàn bộ dự án”, nghệ sĩ Rei Nguyễn chia sẻ.

    “Hơn cả một mùi hương, Nhã là hơi thở của Việt Nam. Là sen Tam Cốc nương theo gió trời. Là trà Thái Nguyên, cốm làng Vòng, quýt Lai Vung hòa vào nhau, tạo nên bản giao hưởng hương sắc Việt giữa bầu trời”.

    Đội ngũ tiếp viên Vietnam Airlines trong chuyến bay đầu tiên có mùi hương Nhã.

    Ngoài việc “làm thơm” không gian, hương thơm của Vietnam Airlines còn được coi như một nghi thức, thực hiện thủ công bởi chính những tiếp viên trên mỗi chuyến bay. Nhã lan tỏa trong
    khoang bay ở hai khoảnh khắc đặc biệt – đón và tiễn khách, bởi đây cũng là lúc cảm xúc được đánh thức rõ ràng, khi bắt đầu và kết thúc một hành trình.

    “Nhã từ tốn và tinh tế, biểu trưng của tinh thần ‘Vạn dặm nâng niu’ mà Vietnam Airlines luôn theo đuổi. Đó là phẩm chất của một thương hiệu biết chăm chút những điều người ta không
    nhìn thấy, nhưng sẽ luôn cảm nhận được”, Rei Nguyễn cho biết.

    Nói về chuyến bay đầu tiên mang hương Nhã, tiếp viên trưởng Nguyễn Thị Mai Hương, cho biết toàn thể đội bay đều rất mong chờ, xen lẫn tự hào, trong khoảnh khắc chào đón những du khách
    đầu tiên bước chân lên máy bay. “Một số khách chia sẻ sen là mùi hương đặc trưng của đất nước Việt Nam, rất trang nhã và nhẹ nhàng. Đoàn tiếp viên cũng cảm nhận được hương sen dịu dàng
    giúp giảm bớt những khoảnh khắc lo âu, đặc biệt trên những chuyến bay dài”, chị Mai Hương chia sẻ.

    Hành khách được chào đón trên chuyến bay Nhã.

    Trên chuyến bay đầu tiên của Nhã, chị Hoàng Minh Hồng, một doanh nhân tại TP HCM, sinh ra và lớn lên ở Ninh Bình, là một trong những du khách đầu tiên nhận ra mùi hương “lạ mà quen”. “Tôi thường bay Vietnam Airlines về thăm nhà, nên khi bước vào cửa máy bay đã nhận ra mùi hương mới. Khoảnh khắc đó mình biết đây là hương sen, bởi là người con của Ninh Bình, tuổi thơ lớn lên bên cạnh những hồ sen”, chị Minh Hồng kể khi đáp chuyến bay từ TP HCM về Hà Nội.

    “Đây là chuyến đi mình trở về thăm ba mẹ từ đầu năm, cảm giác rất hoài niệm và xúc động, như vùng quê Ninh Bình đang chào đón trở về nhà”, chị nói thêm.

    Một hành khách trải nghiệm các mùi hương Nhã trên chuyến bay.

    Ngoài ý nghĩa mùi hương trong không gian nơi Vietnam Airlines hiện diện, hãng Hàng không Quốc gia còn định vị Nhã sẽ là tuyên ngôn của thương hiệu, nơi bản sắc dân tộc và tiêu chuẩn
    quốc tế hòa quyện. Theo đó, Vietnam Airlines sẽ tiếp tục nghiên cứu các phiên bản nâng cấp mùi hương phù hợp theo từng giai đoạn, mang đến trải nghiệm “Vạn dặm nâng niu” cho mỗi hành
    khách.

    Với nghệ sĩ Rei Nguyễn, cô kỳ vọng Nhã sẽ là ‘hương thơm thay lời nói’, nơi du khách quốc tế cảm nhận được lời chào và tạm biệt từ con người Việt Nam. Còn với những người Việt, đó là cảm giác được trở về nhà, là điểm chạm gợi lên cảm xúc ở quê hương, đất nước.

    Phó tổng giám đốc Vietnam Airlines, ông Đặng Anh Tuấn cho biết mỗi tầng hương của Nhã mang theo hơi thở của một vùng đất ở Việt Nam và cùng gặp nhau trên khoang bay, nơi giao hòa của mọi miền hương sắc Việt. “Từ sự dung dị đến tinh tế, tất cả được chắt lọc, gom lại trong một điểm chạm duy nhất là Nhã, biểu trưng cho tinh thần thanh lịch và tinh tế của Vietnam Airlines”, ông nói.

    Vietnam Airlines giới thiệu chuyến bay mùi hương Nhã. Nguồn: Vietnam Airlines

    Nội dung: Quang Anh Ảnh: Giang Huy Thiết kế: Thái Hưng – Sơn Bá

  • Xăng E10 có thể giúp Việt Nam tiết kiệm gần tỷ USD mỗi năm

    Xăng E10 có thể giúp Việt Nam tiết kiệm gần tỷ USD mỗi năm

    Theo các chuyên gia, việc bắt buộc dùng xăng E10 từ 2026 có thể giúp Việt Nam giảm nhập khẩu xăng dầu, tạo đầu ra ổn định cho nông nghiệp và giảm phát thải.

    Xăng sinh học E10 – loại nhiên liệu sinh học pha 10% ethanol (được sản xuất từ mía và sắn tươi) vào xăng khoáng – đang bước vào giai đoạn bản lề khi Việt Nam cùng lúc phải bảo đảm an ninh năng lượng và giảm phát thải theo cam kết Net Zero.

    Theo Thông tư mới, từ ngày 1/6/2026, toàn bộ xăng theo quy chuẩn hiện hành phải được phối trộn thành E10 (còn E5 RON92 chỉ duy trì song song đến hết năm 2030). Quy định này thể hiện sự chuyển dịch từ tự nguyện sang bắt buộc, mở đường để E10 trở thành nhiên liệu phổ biến.

    Tại tọa đàm “Sử dụng xăng sinh học E10 – Phát triển bền vững” do báo Sài Gòn Giải Phóng tổ chức ngày 25/11, nhiều chuyên gia cho rằng loại xăng này có thể mang lại lợi ích kinh tế, tạo thị trường cho nông nghiệp và giúp giảm phát thải nếu Việt Nam chuẩn hóa được hệ sinh thái nhiên liệu sinh học.

    Ông Ngô Trí Long, nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu Thị trường Giá cả (Bộ Tài chính), nhận định Việt Nam đang chịu sức ép từ giá dầu và lộ trình chuyển đổi xanh. Trong khi hơn 60 quốc gia đã phổ cập E10, Việt Nam có khả năng chủ động một phần nguồn cung nhờ ethanol trong nước. Với mức tiêu thụ khoảng 25 triệu tấn xăng dầu mỗi năm, chỉ cần thay thế một triệu tấn xăng khoáng bằng ethanol đã giúp tiết kiệm 700 triệu đến gần 1 tỷ USD nhập khẩu và giảm phụ thuộc vào thị trường quốc tế.

    Ông Long cho rằng việc mở rộng E10 còn tạo đầu ra cho nông nghiệp. Sáu nhà máy ethanol hiện có công suất 600.000 m3 mỗi năm nhưng chỉ hai đơn vị vận hành. Nhu cầu ethanol có thể đạt 2 triệu tấn mỗi năm nếu E10 được áp dụng bắt buộc, qua đó tiêu thụ 7-8 triệu tấn sắn tươi hoặc 16-18 triệu tấn mía. Thị trường ổn định sẽ giúp nông dân cải thiện thu nhập và khuyến khích doanh nghiệp đầu tư chế biến sâu.

    Ông Ngô Trí Long, nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu Thị trường Giá cả (Bộ Tài chính) phát biểu tại tọa đàm sáng 25/11 ở TP HCM. Ảnh: Sài Gòn Giải Phóng

    Xét về môi trường, ông Long cho biết E10 có thể giảm 3-7% CO2 so với xăng khoáng theo tiêu chuẩn tham chiếu của Mỹ. Ông cũng khẳng định 95% phương tiện trong nước có thể sử dụng E10 mà không cần thay đổi kỹ thuật. Mỹ và châu Âu đã chuyển hoàn toàn từ E5 sang E10, cho thấy xu hướng thị trường ngày càng rõ ràng. Tuy vậy, ông nhấn mạnh khung pháp lý chỉ là bước khởi đầu, còn giá, hạ tầng phối trộn và niềm tin của người dùng mới quyết định mức tiêu thụ.

    Hiện, giá xăng E10 vẫn chưa tạo chênh lệch đủ lớn. Xăng E10 đang rẻ hơn xăng khoáng khoảng 700 đồng một lít, thấp hơn mức chênh 1.000-1.500 đồng tại nhiều nước. Các chuyên gia đề nghị cần tăng cường minh bạch thông tin, thống nhất cơ chế bảo hành giữa hãng xe và nhà phân phối, phổ biến tài liệu hướng dẫn sử dụng E10 để người dùng dễ nhận diện. Khi Thông tư 50 có hiệu lực vào tháng 6/2026, các doanh nghiệp như Petrolimex, PVOIL, BSR và Saigon Petro đã khẳng định đủ năng lực cung ứng, tạo điều kiện để mở rộng thị trường.

    PGS TS Văn Đình Sơn Thọ cho rằng tiêu chuẩn chất lượng hiện vẫn là điểm yếu. Việt Nam đang duy trì nhiều mức chuẩn từ 2 đến 5, khiến hàm lượng lưu huỳnh và benzen chênh lệch lớn, tác động trực tiếp đến phát thải SO2 và hydrocacbon độc hại.

    Ông Thọ đánh giá ethanol vẫn được sử dụng quá ít so với nhu cầu tiềm năng. Việt Nam chỉ tiêu thụ 120.000 tấn mỗi năm, thấp hơn nhiều nước trong khu vực. Mức hỗ trợ giá 500-700 đồng một lít trong hơn 20 năm chưa đủ để E5 phát triển ổn định và E10 có thể gặp khó khăn tương tự nếu chính sách giá không điều chỉnh kịp thời.

    Ở góc nhìn doanh nghiệp, ông Bùi Ngọc Bảo – Chủ tịch Hiệp hội Xăng dầu Việt Nam – cho rằng thị trường thường thích ứng nhanh hơn lo ngại nếu chính sách rõ ràng. Ông khẳng định E5 và E10 đều phải đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật trước khi ra thị trường, còn việc động cơ nóng hơn khi dùng xăng sinh học chỉ là đặc tính nhiên liệu và nằm trong ngưỡng cho phép. Theo ông, đánh giá rằng E5 kinh doanh không hiệu quả chưa phản ánh đầy đủ diễn biến thị trường vì người tiêu dùng luôn chuyển dần sang sản phẩm tốt hơn theo chu kỳ. Việt Nam đi theo xu hướng quốc tế khi chuyển sang E10.

    TS Giang Chấn Tây, Giám đốc Công ty Bội Ngọc, cho hay cần coi E10 là bài kiểm tra khả năng tự chủ năng lượng. Ông cho biết E10 chỉ thực sự “xanh” khi ethanol được sản xuất trong nước; nếu phải nhập khẩu, xăng sinh học chỉ mang tính hình thức. Ông cũng nêu vấn đề hao hụt do đặc tính bay hơi và hút ẩm của E10, nhất là trong điều kiện nắng nóng. Mức hao hụt 0,25-0,4% mỗi m3 mỗi tháng chưa được đưa vào định mức hiện hành, khiến nhiều doanh nghiệp bán lẻ chịu lỗ. Ông đề xuất cập nhật định mức, bổ sung cơ chế bù chiết khấu và kéo dài thử nghiệm trong khu vực công đến tháng 6/2026.

    Theo các chuyên gia, E10 chỉ có thể mở rộng nếu chính sách, doanh nghiệp và người tiêu dùng cùng tham gia. Khi thị trường được chuẩn hóa, chất lượng được bảo đảm và thông tin minh bạch, E10 có thể giúp giảm nhập khẩu xăng khoáng, mở thị trường nông sản, thúc đẩy ngành chế biến và cải thiện chất lượng không khí đô thị. Đây là thời điểm để E10 trở thành chuẩn nhiên liệu mới, kết hợp lợi ích kinh tế, xã hội và môi trường.

    Bà Nguyễn Thúy Hiền, Phó cục trưởng Cục Quản lý và Phát triển thị trường trong nước, cho biết Bộ Công Thương đã đề xuất hoàn thiện quy chuẩn E5 và E10, hướng dẫn vùng nguyên liệu, tăng tuyên truyền để người dùng hiểu rõ hơn về xăng sinh học. Bà cho rằng sự phối hợp giữa địa phương, doanh nghiệp và người dân sẽ quyết định tốc độ phổ cập E10. Bộ đặt mục tiêu đưa E10 vào sử dụng toàn quốc từ ngày 1/1/2026.

  • Việt Nam không chạy theo tín chỉ carbon giá rẻ

    Việt Nam không chạy theo tín chỉ carbon giá rẻ

    Ông Nguyễn Tuấn Quang – Phó cục trưởng Biến đổi Khí hậu cho biết Việt Nam không chạy theo số lượng tín chỉ carbon giá rẻ mà tập trung vào chất lượng để đảm bảo uy tín.

    Thông tin này được ông Nguyễn Tuấn Quang – Phó cục trưởng Biến đổi Khí hậu (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) nêu tại hội thảo “Định hướng thị trường carbon toàn cầu và Việt Nam” ngày 25/11.

    “Việt Nam không bán tín chỉ carbon giá rẻ”, ông Quang nói. Quan điểm này nhằm đảm bảo lợi ích và uy tín quốc gia, trong bối cảnh thị trường quốc tế ngày càng siết chặt tiêu chuẩn sau Hội nghị thượng đỉnh COP30 tại Brazil.

    Ông Nguyễn Tuấn Quang, Phó cục trưởng Biến đổi Khí hậu tại sự kiện. Ảnh: UEB

    Tín chỉ carbon (carbon credit) là một loại giấy phép hoặc chứng chỉ có thể giao dịch, có giá trị mua bán và cung cấp cho người nắm giữ tín chỉ quyền phát thải một tấn CO2 hoặc loại khí thải khác nằm trong danh sách khí thải nhà kính.

    Theo ông Quang, rừng hiện là công cụ tạo tín chỉ bù trừ phát thải cho doanh nghiệp, quốc gia và đang trở thành tài sản dịch vụ được định giá cao.

    Các thị trường lớn yêu cầu ngày càng khắt khe hơn về chất lượng tín chỉ, gồm tính bền vững, minh bạch, toàn vẹn, tránh trùng lặp (tức tính một tín chỉ hai lần).

    TS. Beria Leimona, trưởng nhóm chuyên gia từ Trung tâm Nghiên cứu Lâm nghiệp Quốc tế (CIFOR), cho biết tín chỉ carbon rừng theo cơ chế REDD+ (giảm phá và suy thoái rừng), hay từ than bùn, rừng ngập mặn cũng bị kiểm tra chặt chẽ hơn.

    Theo dữ liệu từ tổ chức phi lợi nhuận Forest Trends, mỗi tín chỉ tạo ra từ các dự án giảm mất rừng được giao dịch ở mức hơn 6 USD vào năm ngoái, giảm 23%. Trong khi đó, tín chỉ rừng trồng mới và tái trồng rừng (ARR) đạt 20,4 USD, tăng 19%. Carbon xanh dương (tín chỉ từ rừng ngập mặn, cỏ biển) đạt gần 30 USD, tăng 3,5 lần.

    Tín chỉ chất lượng kém được GS.TS Terry Sunderland, Đại học British Columbia, gọi là “tín chỉ giấy”. Ông Terry giải thích loại này không phản ánh việc giảm phát thải thực chất, từ đó giảm lòng tin và tham vọng khí hậu toàn cầu.

    Bên cạnh mức giá được kỳ vọng cao hơn, TS. Beria cho rằng tiêu chuẩn khắt khe này có thể là rào cản với khu vực phát triển tín chỉ năng lực thấp, tức các nông hộ quy mô nhỏ. Thị trường có thể ưu tiên dự án của các nhóm doanh nghiệp lớn thay vì cộng đồng địa phương.

    Nhằm nâng cao chất lượng tín chỉ carbon, việc tăng cường hệ thống Đo lường, Báo cáo và Xác minh (MRV) là yếu tố quan trọng, đảm bảo tính công nhận của tín chỉ. Bên cạnh đó, giáo sư từ Đại học British Columbia cho rằng năng lực quản lý thị trường cần được nâng cao, tránh gây ra tình trạng “tín chỉ giấy”.

    Thực tế, tình trạng bất cập chất lượng tín chỉ như thiếu tính bổ sung (lợi ích của dự án tạo tín chỉ so với kịch bản không thực hiện), hay rủi ro rò rỉ phát thải cũng là vấn đề đau đầu của Columbia.

    Ông khuyến nghị Việt Nam cần một khung pháp lý vững chắc giúp củng cố quản trị, tạo nền tảng cho thị trường carbon. Ví dụ, một tiêu chuẩn tín chỉ với hướng dẫn, phân quyền rõ ràng, là điều cần thiết. Thêm vào đó, ông cho rằng Việt Nam cần tăng cường thu hút đầu tư tư nhân vào các dự án giảm phát thải, dựa trên các từ khóa “minh bạch” và “chia sẻ lợi ích”.

    Việt Nam đặt mục tiêu vận hành thí điểm sàn giao dịch carbon vào cuối năm 2026 , tiến tới vận hành chính thức và kết nối thị trường quốc tế từ 2029. Dự thảo nghị định về sàn giao dịch carbon đã được trình Thủ tướng. Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang soạn thảo Nghị định trao đổi quốc tế kết quả giảm phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon, dự kiến trình Chính phủ vào tháng 12.

  • Giá thực phẩm ở Mỹ khó giảm ngay dù ông Trump miễn thuế

    Giá thực phẩm ở Mỹ khó giảm ngay dù ông Trump miễn thuế

    Hàng tồn kho được mua ở giá cao vẫn chưa bán hết, cùng tác động từ thời tiết, dịch bệnh, loại thuế khác khiến giá thực phẩm Mỹ khó giảm.

    Ngày 14/11, Tổng thống Mỹ Donald Trump ký sắc lệnh miễn thuế đối ứng với hàng loạt thực phẩm. Đó là cà phê, trà, trái cây nhiệt đới và nước ép trái cây, hạt cacao, gia vị, chuối, cam, cà chua, thịt bò cùng một số loại phân bón.

    Ngày 20/11, ông tiếp tục ký sắc lệnh gỡ bỏ thuế bổ sung 40% áp lên thực phẩm Brazil, gồm thịt bò, cacao và các loại trái cây. Brazil cung cấp tới một phần ba số cà phê tiêu thụ tại Mỹ và là nhà cung cấp lớn về thịt bò, đặc biệt là loại để làm burger.

    Các động thái này diễn ra khi Tổng thống Mỹ gần đây đối mặt với nhiều chỉ trích vì giá thực phẩm tăng cao. Tuy nhiên, việc rút lại các loại thuế này không có nghĩa giá sẽ sớm giảm.

    Theo dữ liệu quản lý chuỗi cung ứng và kinh nghiệm từ lịch sử, giá bán lẻ cần thời gian mới hạ nhiệt. Nguyên nhân chính nằm ở lượng hàng tồn kho. Các loại thực phẩm đang bày bán đã được mua và nhập khẩu từ khi thuế còn ở mức cao.

    “Người tiêu dùng còn chưa thực sự thấy tác động lớn của lạm phát đâu, vì nó đang nằm ở khâu trung gian, là các kho hàng và trung tâm phân phối”, Zachary Rogers – Giảng viên quản lý chuỗi cung ứng tại Đại học bang Colorado giải thích.

    Nhân viên xếp rau củ trong một siêu thị ở Washington (Mỹ). Ảnh: Reuters

    Các hãng bán lẻ và chuyên gia logistics đều cảnh báo biên lợi nhuận hoạt động của doanh nghiệp đã chịu ảnh hưởng. Rogers cho biết người tiêu dùng sẽ cảm nhận rõ lạm phát khi những mặt hàng này lên kệ. Hãng bán lẻ sẽ phải nâng giá chúng để bù lại chi phí.

    “Chuỗi cung ứng không thể phản ứng nhanh với các điều chỉnh giá, dù là điều chỉnh do tổng thống hay biến động tự nhiên của thị trường”, Phil Kafarakis – CEO hiệp hội thực phẩm IFMA cho biết. Khi chuỗi cung ứng gián đoạn vì đại dịch và sự cố tàu Ever Given bị kẹt tại kênh đào Suez, giá cả mất 6 tháng mới tăng lên, sau đó mất thêm 6 tháng sau mới hạ nhiệt.

    Chủ tịch Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) Jerome Powell cho biết sự kết hợp giữa áp lực chuỗi cung ứng và chi phí logistics tăng mạnh đã góp phần tạo ra “lạm phát tạm thời”. “Lạm phát do thuế nhập khẩu sẽ mất rất lâu mới biểu hiện rõ”, Powell nói trong cuộc họp báo hồi tháng 7.

    “Mức giảm thuế 10% đến 40% chỉ có thể cải thiện biên lợi nhuận dài hạn cho các doanh nghiệp sản xuất, thu hoạch, vận chuyển, tiếp thị và bán thực phẩm”, Kafarakis giải thích.

    Ông cho biết người tiêu dùng sẽ chưa cảm nhận được tác động của sắc lệnh trong một thời gian dài. Kafarakis dự báo giá cà chua và dâu tây sẽ giảm phần nào vào đầu năm tới. Một số mặt hàng như cà phê và phô mai có thể được hạ giá để thu hút khách vào cửa hàng, nhưng “chỉ trong thời gian ngắn hoặc số lượng hạn chế”.

    Các nhà kinh tế học cũng cảnh báo giá chưa chắc quay về mức thấp trước đây, kể cả khi hàng tồn kho được bán hết và nhập mới. “Trong báo cáo lợi nhuận quý III, tôi thấy nhiều công ty cho biết vẫn sẽ điều chỉnh giá, vì chi phí cấu trúc đã tăng lên do thuế”, Peter Boockvar – Giám đốc đầu tư tại OnePoint Wealth Advisers nhận xét.

    Ông cho biết ngay cả khi Tòa Tối cao không cho phép ông Trump dùng Đạo luật Quyền Kinh tế Khẩn cấp (IEEPA) để áp thuế quy mô lớn, doanh nghiệp vẫn có rủi ro bị áp thuế theo từng ngành hàng. Hiện tại, nhôm, thép, xe hơi nhập khẩu đều đã bị áp thuế riêng.

    Bên cạnh đó, giá cả tăng lên còn vì nhiều yếu tố khác ngoài thuế nhập khẩu. Ví dụ, giá cacao tồn kho đang ở mức cao một phần vì sản lượng giảm do hạn hán. Số lượng đàn bò Mỹ hiện ở mức thấp nhất 74 năm và dịch bệnh ở Mexico khiến Mỹ cấm toàn bộ thịt bò Mexico cũng đẩy giá thịt bò lên cao.

    Mỹ đã dỡ bỏ thuế 10% với thịt bò Australia, Argentina và Uruguay. Thuế 15% với thịt bò New Zealand cũng đã được miễn. “Về mặt chính trị, áp thuế đối thủ nước ngoài để bảo vệ nhà sản xuất trong nước rất dễ. Nhưng người tiêu dùng mới là bên phải trả tiền. Khi nhu cầu giảm xuống, họ lại chuyển sang ăn thịt gà. Thế là công ty trong nước cũng chẳng khá hơn”, Boockvar nói.

    Hiệu ứng từ các loại thuế khác cũng khiến giá thực phẩm chưa thể giảm ngay khi một phần thuế được dỡ bỏ. Ví dụ, thuế thép và nhôm hiện ở mức 50% khiến giá sản phẩm đóng hộp và máy móc tăng theo.

    Dữ liệu của NielsenIQ về giá thực phẩm dịp Lễ Tạ ơn cho thấy giá trung bình loại sốt nam việt quất đóng hộp tăng từ 2,02 USD tháng 11/2024 lên 2,52 USD tháng 10/2025. Nhôm dùng để sản xuất lon chịu thuế theo sắc lệnh đầu năm nay của ông Trump.

    Ngoài sốt nam việt quất đóng hộp, súp kem nấm cũng tăng giá. Bánh hồ đào tăng 15%. Giá gà tây cũng nhích lên. Theo Liên đoàn Nông trại Mỹ, số lượng đàn gà tây của Mỹ đã giảm xuống mức thấp nhất gần 40 năm do cúm gia cầm. Một số loại phân bón nhập khẩu hiện chịu thuế hai chữ số, từ đó làm tăng chi phí trồng trọt để sản xuất thức ăn chăn nuôi.

  • Hãng bay vận chuyển miễn phí hàng cứu trợ đến vùng lũ

    Hãng bay vận chuyển miễn phí hàng cứu trợ đến vùng lũ

    Để hỗ trợ người dân miền Trung – Tây Nguyên, các hãng hàng không đồng loạt vận chuyển hàng cứu trợ miễn phí và đổi chuyến cho khách bị ảnh hưởng bởi lũ.

    Vietnam Airlines Group cho biết, hãng đang triển khai kế hoạch nhận và vận chuyển miễn phí hàng hóa cứu trợ trên các chuyến bay của Vietnam Airlines, Pacific Airlines và VASCO đến hết ngày 31/12, nhằm chia sẻ khó khăn với người dân vùng lũ. Hàng hóa được miễn toàn bộ cước vận chuyển và phụ thu, đồng thời ưu tiên xếp tải trên các chuyến bay đến Phù Cát, Tuy Hòa, Cam Ranh, Liên Khương, Buôn Ma Thuột và Pleiku. Chính sách này cũng tiếp tục áp dụng với các điểm Phú Bài, Đà Nẵng và Chu Lai như trước.

    Hoạt động vận chuyển hàng miễn phí dành cho Mặt trận Tổ quốc, UBND các tỉnh thành, Hội Chữ thập đỏ, các tổ chức chính trị – xã hội, quỹ từ thiện được cấp phép và doanh nghiệp có xác nhận mục đích cứu trợ. Từ cuối tháng 10 đến nay, Vietnam Airlines Group đã vận chuyển hơn 30 tấn hàng gồm nhu yếu phẩm, thuốc men và vật dụng thiết yếu đến các địa phương bị ảnh hưởng.

    Hàng cứu trợ do các tổ chức từ thiện gửi được Vietnam Airlines vận chuyển miễn phí từ TP HCM đến các tỉnh vùng lũ. Ảnh: Vietnam Airlines

    Cùng với Vietnam Airlines, Vietjet tiếp tục vận chuyển miễn phí hàng cứu trợ từ Hà Nội và TP HCM đến các tỉnh miền Trung. Trước đó, Bamboo Airways cũng thực hiện chương trình vận chuyển miễn phí hàng cứu trợ từ ngày 5 đến 15/11.

    Ngoài hoạt động vận chuyển hàng cứu trợ, Vietjet triển khai chính sách đổi chuyến miễn phí hoặc hoàn bảo lưu theo điều kiện vé cho hành khách bị ảnh hưởng bởi mưa lũ. Các chuyến khởi hành từ Cam Ranh trong ngày 20-23/11, từ Tuy Hòa ngày 20-25/11 và từ Phù Cát ngày 19-23/11 được hỗ trợ điều chỉnh thời gian bay.

  • 1 500 tiền hiện vật Việt Nam qua các thời kỳ

    1 500 tiền hiện vật Việt Nam qua các thời kỳ

    TP HCM lần đầu trưng bày hơn 1.500 hiện vật tiền Việt Nam từ 1875, gồm giấy bạc Đông Dương, giấy bạc Cụ Hồ, tiền kháng chiến, phiếu mua hàng đến tiền polyme.

    Triển lãm “Đồng tiền Việt Nam – Hành trình theo dòng chảy lịch sử dân tộc” do Ngân hàng Nhà nước chi nhánh khu vực 2 tổ chức, nhằm giới thiệu các hiện vật tiêu biểu là tiền Việt Nam qua các thời kỳ, gắn liền với các giai đoạn phát triển của đất nước.

    Triển lãm được chia 4 chủ đề chính, gồm Tiền Đông Dương; Giấy bạc tài chính, Giấy bạc “Cụ Hồ” (1945 – 1954); Tiền Ngân hàng Quốc gia Việt Nam (1951-1975); và Tiền Ngân hàng Việt Nam và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (1975 đến nay).

    Khách tham quan tại khu vực Giấy Bạc Đông Dương tại triển lãm. Ảnh: Quỳnh Trang

    Trong đó, bộ tiền phát hành năm 1978 là bộ tiền đầu tiên Ngân hàng Nhà nước phát hành trong phạm vi cả nước, thống nhất tiền tệ trên toàn Việt Nam, mở ra một trang mới cho lịch sử tiền tệ Việt Nam.

    Ngày 2/5/1978, việc phát hành tiền mới, thu hồi tiền cũ trên toàn lãnh thổ Việt Nam đã được triển khai theo quy định 1 đồng tiền ngân hàng mới bằng 1 đồng tiền ngân hàng ở miền Bắc và bằng 0,8 đồng tiền ngân hàng ở miền Nam.

    Lần đổi tiền tiếp theo là vào 1985, nằm trong cuộc tổng điều chỉnh giá, lương, tiền nhằm mục đích điều chỉnh và ổn định sức mua đồng tiền, lập lại trật tự trong khâu phân phối lưu thông và điều chỉnh một phần thu nhập của những người làm ăn bất chính. Hội đồng Bộ trưởng đã ra quyết định cho Ngân hàng Nhà nước đổi tiền theo tỷ lệ 10 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước cũ bằng 1 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước mới

    Không gian trưng bày tiền, thông báo về cuộc đổi tiền mới năm 1985. Ảnh: Quỳnh Trang

    Tháng 12/2003, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành và đưa dần vào lưu thông một hệ thống tiền mới trên chất liệu polymer và kim loại, đồng thời thay thế, thu hồi các loại tiền giấy cotton. Bên cạnh độ sạch đẹp và giữ được lâu hơn so với tiền cotton, tiền polymer giúp giảm đáng kể số lần chi phí in ấn, phát hành do giấy nền polymer có độ bền cơ học cao hơn hẳn so với giấy cotton, không thấm nước do đó tuổi thọ được nâng lên và thích nghi tốt hơn với dịch vụ giao dịch tự động (ATM), tuyển lựa, phân loại và kiểm đếm.

    Tiền giấy 5 đồng được Ngân hàng Nhà nước phát hành năm 1978, mặt trước in mệnh giá, mặt sau có hình ảnh cảng cá Hạ Long (Quảng Ninh). Ảnh: SBV

    Triển lãm mở cửa miễn phí vào các ngày cuối tuần từ ngày 22/11/2025 đến hết tháng 4/2026, dành cho khách tham quan từ 14 tuổi trở lên, là không gian dành cho nhiều đối tượng, đặc biệt những nhà sưu tập, người nghiên cứu về văn hóa, cổ vật, những người quan tâm đến lĩnh vực tài chính – ngân hàng và các bạn trẻ có niềm yêu thích với văn hóa, lịch sử dân tộc.

    Phát biểu khai mạc triển lãm, ông Phạm Tiến Dũng, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho biết, triển lãm phản ánh lịch sử đấu tranh xây dựng và phát triển đất nước qua hành trình của đồng tiền Việt Nam, đồng thời là dịp giáo dục truyền thống, khơi dậy tự hào và trách nhiệm của ngành ngân hàng.

    Ông Dũng cũng cho biết thêm, năm 2025 là năm quan trọng, năm cuối của giai đoạn 2021 – 2025, với nhiều nhiệm vụ trọng tâm. Trong đó, Ngân hàng Nhà nước đã tích cực triển khai sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả theo tinh thần Nghị quyết số 18. Ngân hàng Nhà nước chi nhánh khu vực 2 được giao quản lý địa bàn TP HCM và tỉnh Đồng Nai.

  • Nhật Bản tung 135 tỷ USD kích thích kinh tế

    Nhật Bản tung 135 tỷ USD kích thích kinh tế

    Sau quý III tăng trưởng âm, Chính phủ Nhật Bản phê duyệt gói kích thích 21.300 tỷ yen (135,4 tỷ USD) nhằm thúc đẩy kinh tế.

    Gói chi tiêu 135,4 tỷ USD được nội các Nhật Bản phê duyệt hôm 21/11, lớn hơn nhiều so với các gói kích thích mà chính phủ nước này từng tung ra trước đại dịch. Nó gồm trợ cấp chi phí năng lượng, giảm thuế xăng và nhiều biện pháp khác nhằm hỗ trợ người dân trước chi phí sinh hoạt tăng cao.

    Trong đó, 400 tỷ yen (2,6 tỷ USD) dùng để phát 20.000 yen (khoảng 130 USD) một lần cho mỗi trẻ em. Ngoài ra, mỗi người dân sẽ được nhận phiếu gạo hoặc phiếu mua hàng trị giá 3.000 yen (khoảng 20 USD).

    Tăng trưởng GDP Nhật Bản – nền kinh tế lớn thứ tư thế giới – đã giảm 1,8% trong quý III. Tháng trước, lạm phát cơ bản nước này ở mức 3%, cao hơn mục tiêu khoảng 2% của Ngân hàng Trung ương. Trong khi, xuất khẩu sang Mỹ đã giảm 7 tháng liên tiếp, dù xuất khẩu sang các thị trường khác tăng 3,7%.

    Thủ tướng Nhật Bản Sanae Takaichi tại Tokyo ngày 24/10. Ảnh: AFP

    Theo Văn phòng Nội các, gói kích thích dự kiến giúp GDP tăng trưởng thêm 24.000 tỷ yen (155 tỷ USD), tương đương 1,4 điểm phần trăm mỗi năm trong ba năm tới, trong khi lạm phát giảm trung bình 0,7 điểm phần trăm trong quý I/2026. Thủ tướng Sanae Takaichi cho biết gói kích thích là bước hiện thực hóa nhanh chóng cam kết của bà sau đắc cử.

    Bà cho rằng chi tiêu khôn ngoan sẽ biến lo lắng thành hy vọng và xây dựng nền kinh tế vững mạnh. “Điều chúng ta cần làm lúc này là tăng cường sức mạnh quốc gia thông qua chi tiêu mở rộng, hợp lý và tránh gây tổn hại bằng các chính sách thắt chặt quá mức”, bà nhấn mạnh.

    Để triển khai gói kích thích, chính phủ bà Takaichi cần phải lập ngân sách bổ sung và được Quốc hội phê duyệt trước cuối năm. Đây là thách thức lớn vì liên minh cầm quyền của bà không chiếm đa số ở cả Thượng viện lẫn Hạ viện.

    Các nghị sĩ đối lập và nhiều chuyên gia đang đặt câu hỏi liệu gói kích thích này có thực sự hiệu quả không. Họ cho rằng tác động lên lạm phát bằng cách giảm chi phí năng lượng thông qua trợ cấp chỉ là tạm thời. Trong khi, nhu cầu tăng từ các chính sách kích thích khác có thể đẩy giá lên.

    Ngân hàng đầu tư ING (Hà Lan) nhận định, nếu gói chi tiêu được Quốc hội thông qua, GDP Nhật Bản có thể tăng đáng kể trong nửa đầu 2026. Nhà băng đã lập tức chỉnh dự báo tăng trưởng nước này 2026 lên 1,4% so với mức 0,7% trước đó.

    “Chúng tôi cần tiếp tục theo dõi cấu trúc cuối cùng của gói này, nhưng với quy mô lớn như vậy, nó gần như chắc chắn sẽ thúc đẩy tăng trưởng ngắn hạn”, bà Min Joo Kang, chuyên gia kinh tế cấp cao Hàn Quốc và Nhật Bản tại ING bình luận.

    Nhờ trợ cấp năng lượng, lạm phát chung dự báo giảm xuống dưới 2% suốt năm tới. Nhưng lạm phát cốt lõi nhiều khả năng sẽ duy trì trên 2% khá lâu, khi gói kích thích thúc đẩy nhu cầu và tiếp tục gây áp lực giảm giá lên đồng yen, theo ING.

  • Tranh cãi gay gắt quanh thuế biên giới carbon của châu Âu

    Tranh cãi gay gắt quanh thuế biên giới carbon của châu Âu

    Các nước mới nổi, đang phát triển chỉ trích EU tại COP30 vì cho rằng thuế biên giới carbon (CBAM) tạo thêm gánh nặng thương mại.

    Các nhà sản xuất gây ô nhiễm nặng tại EU phải trả khoảng 80 euro cho mỗi tấn carbon thải ra. Việc này nhằm khuyến khích họ chuyển sang phương thức sản xuất xanh, nhưng nguy cơ bị cạnh tranh bởi các sản phẩm nhập khẩu bẩn hơn. Để giải quyết lo ngại, EU thiết lập Cơ chế Điều chỉnh Biên giới Carbon (CBAM), áp thuế một số hàng hóa từ những nước không có chi phí carbon tương đương từ 1/1/2026.

    Châu Âu xem CBAM là biểu hiện của khả năng chuyển sức mạnh kinh tế thành ảnh hưởng chính sách toàn cầu, kỳ vọng thúc đẩy các nước sản xuất sạch hơn. Ví dụ, Thổ Nhĩ Kỳ nói CBAM là lý do chính khiến họ đưa ra luật cắt giảm khí thải.

    Tuy nhiên, cách tiếp cận này không làm hài lòng tất cả. Tại Hội nghị lần thứ 30 các Bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP30) ở Brazil, tranh cãi quanh CBAM trở nên gay gắt. Trong đó, Ấn Độ, Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ và Nam Phi phản đối mạnh nhất, theo Le Monde .

    “Đây là cú đánh kép vào các nước đang phát triển”, Harjeet Singh, nhà hoạt động Sáng kiến Hiệp ước Không phổ biến Nhiên liệu hóa thạch của Ấn Độ nhận xét. Theo ông, EU có dấu chân carbon lớn thứ hai nhưng không hỗ trợ đủ nhiều cho chuyển đổi năng lượng ở những nước kém phát triển hơn. “Và giờ EU lại áp thuế lên hàng xuất khẩu chỉ vì các nền kinh tế chưa đủ xanh”, ông nói.

    Sameer Kwatra, Giám đốc chi nhánh Ấn Độ của Hội đồng Bảo vệ Tài nguyên Thiên nhiên xem CBAM là “biện pháp thương mại nào mang tính đơn phương” và tác động không cân xứng đến một số nền kinh tế.

    Ông Mohammad Navid Safiullah, quan chức Bộ Khí hậu Bangladesh nói “đặc biệt lo ngại” về việc ngày càng nhiều biện pháp thương mại đơn phương, bị thao túng, tạo gánh nặng không đáng có. “Tham vọng khí hậu phải được xây dựng trên quan hệ đối tác, không phải chủ nghĩa bảo hộ”, ông nói.

    Một nhà đàm phán Mỹ Latin nói EU bổ sung quá nhiều chính sách ảnh hưởng tới thương mại hàng năm. “Chống phá rừng, CBAM đều là các biện pháp rất cứng rắn. Chúng tôi cho rằng cần phải có một cuộc đối thoại”, vị này nói.

    Đặc phái viên về khí hậu của Trung Quốc Liu Zhenmin nói thế giới “cần một môi trường đầu tư thân thiện với khí hậu”. Ông cho rằng việc gắn thương mại với khí hậu không phải là ý tưởng tốt.

    Cao ủy Khí hậu EU Wopke Hoekstra tham dự phiên họp cấp cao thuộc COP30 tại Belem, Brazil ngày 17/11. Ảnh; Reuters

    Trước các chỉ trích, Cao ủy Khí hậu EU Wopke Hoekstra đáp lại cứng rắn. “Chúng tôi sẵn sàng thảo luận mọi yếu tố liên quan đến CBAM, nhưng đừng rơi vào cái bẫy coi đây là biện pháp thương mại đơn phương”, ông nói.

    Ông Wopke Hoekstra khẳng định CBAM là biện pháp khí hậu, không phải thương mại. Theo ông, nó là một phần trong bộ công cụ khí hậu nhằm ngăn phát thải rời khỏi EU và các nền kinh tế ngoài khối cũng sẽ đồng hành. Anh định áp dụng cơ chế tương tự vào năm 2027. Brazil, Australia, Canada cũng đang cân nhắc.

    Tranh cãi liệu CBAM gây thiệt hại cho các nước đang phát triển hay là công cụ thiết yếu chống biến đổi khí hậu tại COP30 xuất phát từ các động cơ khác nhau. Các chuyên gia cho rằng một số quốc gia lên tiếng vì họ chắc chắn phải chịu thuế cao hơn do chưa tiến xa bằng EU trong lộ trình khử carbon.

    “Nhưng nhiều bên khác đang dùng vấn đề này như con bài mặc cả để đổi lấy nhượng bộ ở các nội dung khác”, Ellie Belton, chuyên gia thương mại – khí hậu tại Tổ chức Môi trường Thế hệ Thứ Ba (E3G) tại London, chỉ ra.

    Một số nhà đàm phán châu Âu thừa nhận phàn nàn CBAM từ một số nước là chính đáng nhưng có những bên vì dụng ý khác. Một nhà ngoại giao của khối nói với Politico rằng Nhóm Các nước đang phát triển cùng chí hướng (LMDC), bao gồm Ấn Độ, Trung Quốc, các nước Arab do Arab Saudi dẫn đầu dùng CBAM như “con bài chiến thuật” tạo lợi thế trong các cuộc đàm phán rộng hơn.

    Theo nhà ngoại giao này và nhà đàm phán Mỹ Latin, Arab Saudi đưa CBAM vào các cuộc thảo luận không liên quan để cản trở tiến triển các đồng thuận tại COP, vì điều đó có thể ảnh hưởng bất lợi đến xuất khẩu nhiên liệu hóa thạch.

    Để phá thế bế tắc, Brazil tổ chức Diễn đàn Tích hợp về Khí hậu và Thương mại hôm 15/11. “Thảo luận về chủ đề này rất quan trọng, nhưng câu hỏi đặt ra là phải thảo luận theo hướng nào”, Ieva Barsauskaite, chuyên gia thương mại tại Viện Quốc tế về Phát triển Bền vững (IISD), nhận xét.

    Hôm 18/11, Brazil công bố dự thảo đầu tiên của thỏa thuận chung COP30, đưa ra 4 lựa chọn nhằm đáp ứng kỳ vọng của các bên, gồm thiết lập các nền tảng đối thoại, tổ chức các phiên họp kỹ thuật và một hội nghị cấp cao tại các giai đoạn khác nhau. Đề xuất cũng gồm phương án đánh giá thường xuyên các biện pháp như CBAM tại các cuộc đàm phán về khí hậu của Liên Hợp Quốc.

    Tuy nhiên, EU cực lực phản đối dự thảo. Đến tối thứ sáu (21/11) – thời điểm dự kiến bế mạc COP30, các cuộc đàm phán vẫn tiếp tục kéo dài đến tận đêm. Liên minh Châu Âu từ chối chấp nhận phiên bản dự thảo đã điều chỉnh và công bố sáng cùng ngày, cho rằng không thúc đẩy nỗ lực toàn cầu nhằm cắt giảm khí nhà kính.

    Ngược lại, một số nền kinh tế mới nổi phản đối lập trường của EU đề nghị khối cam kết nhiều hơn về tài chính để giúp các nước nghèo đối phó với biến đổi khí hậu. “Nếu có lộ trình cho nhiên liệu hóa thạch, cũng phải có lộ trình cho tài chính khí hậu”, một nhà đàm phán giấu tên từ nước đang phát triển nói với Reuters .

    EU trả lời rằng có thể “vượt qua vùng an toàn” của mình trong vấn đề tài chính cho các nước đang phát triển nhưng chỉ khi đối tác tăng cắt giảm khí thải. Đến tối thứ 21/11, một số nhà đàm phán châu Âu cho biết EU đang cân nhắc khả năng rời khỏi bàn đàm phán COP30 thay vì chấp nhận thỏa thuận của hội nghị lần này.

    Phiên An ( theo Politico, Le Monde, Reuters )

  • Bong bóng AI ám ảnh giới đầu tư

    Bong bóng AI ám ảnh giới đầu tư

    Kết quả kinh doanh Nvidia tích cực nhưng giới đầu tư chưa hết lo “bong bóng” khi hàng tỷ USD, gồm vay nợ, vẫn đổ vào AI.

    Quý III, giới đầu tư bắt đầu xem lại định giá “nóng bỏng” của các cổ phiếu liên quan đến công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI). Theo hồ sơ gửi Ủy ban Chứng khoán Mỹ ngày 14/11, quỹ đầu tư Thiel Macro của tỷ phú Peter Thiel bán toàn bộ số cổ phiếu Nvidia đang nắm giữ trị giá khoảng 100 triệu USD.

    Ông Thiel Macro đã không còn nắm giữ cổ phiếu Nvidia tính đến 30/9. Danh mục chính của quỹ Thiel Macro giờ chuyển trọng tâm sang Apple, Microsoft, Tesla. Trước đó, SoftBank cũng đã bán sạch cổ phần Nvidia, thu về 5,83 tỷ USD.

    Giám đốc tài chính Yoshimitsu Goto không xác nhận hay phủ nhận rủi ro bong bóng AI. Nhưng động thái của SoftBank và Thiel Macro khiến nỗi lo về nguy cơ này của thị trường càng rõ nét, nhất là khi khắp nơi liên tục công bố kế hoạch bơm hàng tỷ USD vào cơ sở hạ tầng AI, gồm chip tiên tiến và trung tâm dữ liệu.

    Đồ họa logo Nvidia và OpenAI. Ảnh: Reuters

    Căng thẳng được xoa dịu tuần qua, khi Nvidia công bố báo cáo kết quả kinh doanh ấn tượng. Nhà sản xuất chip Mỹ ghi nhận doanh thu quý tài chính thứ ba (kết thúc ngày 26/10) đạt 57 tỷ USD , tăng 62% so với cùng kỳ 2024, vượt kỳ vọng của Phố Wall. Lợi nhuận ròng tăng 65%, biên lợi nhuận gộp duy trì mức cao 73,4%.

    Nvidia dự báo doanh thu quý hiện tại (từ tháng 11 đến tháng 1/2026) tăng 65%, đạt 65 tỷ USD, nhờ GPU đám mây và dòng chip Blackwell tiên tiến nhất cháy hàng. “Đã có rất nhiều lời bàn tán về bong bóng AI còn chúng tôi có góc nhìn rất khác biệt”, CEO Nvidia Jensen Huang nói hôm thứ tư (19/11).

    Dự báo được Nvidia đưa ra từ nhu cầu chip mạnh mẽ của hàng loạt ông lớn công nghệ như Microsoft, Amazon, Alphabet và Meta Platforms. dùng xây trung tâm dữ liệu. Tháng trước, ông Huang cho biết công ty đã nhận được 500 tỷ USD đơn đặt hàng chip cho cả năm 2025 và 2026.

    Nhà phân tích Timothy Arcuri tại ngân hàng UBS cho rằng cổ phiếu Nvidia sẽ còn tăng tiếp nhờ các dự báo trên. Ông đánh giá “cơn sóng đầu tư cơ sở hạ tầng AI vẫn đang dâng cao”, nhanh đến mức tất cả mã cổ phiếu liên quan công nghệ này cũng tăng giá theo.

    Theo AP , thông tin mới của Nvidia giúp trấn an nỗi lo sụp đổ cơn sốt AI, vốn là động lực thúc đẩy thị trường chứng khoán năm nay. Nhưng giới phân tích cho rằng “bóng ma” bong bóng AI vẫn có thể quay lại trong những tháng và năm tới.

    Nguyên nhân bởi các công ty công nghệ lớn (Big Tech) đang chuẩn bị chi thêm hàng nghìn tỷ USD cho công nghệ này. Cuộc đua xuất phát từ niềm tin AI sẽ quyết định người thắng và kẻ thua trong làn sóng đổi mới tiếp theo.

    Báo cáo gần đây của Gartner dự báo toàn cầu sẽ chi tiêu hơn 2.000 tỷ USD cho AI vào 2026, tăng 37% so với quy mô ước gần 1.500 tỷ USD năm nay. “Chi tiêu cho AI không chỉ đang giữ vững mà còn tăng tốc”, Jake Behan, Giám đốc thị trường vốn công ty đầu tư Direxion nói.

    Chưa rõ liệu tất cả số tiền đổ vào AI có thực sự tạo ra lợi nhuận và năng suất như những người ủng hộ công nghệ này đã hứa hẹn hay không. Điều đó đặt ra câu hỏi liệu tất cả các khoản chi tiêu đang đổ ra có đáng hay không. Khảo sát của Bank of America với các nhà quản lý quỹ toàn cầu cho thấy một tỷ lệ kỷ lục các nhà đầu tư cho rằng các công ty đang “đầu tư quá mức” cho AI.

    Gần đây, Nvidia cùng Microsoft công bố cam kết rót 10 tỷ USD vào nhà cung cấp phần mềm AI Anthropic. Thông thường, thông tin hợp tác lớn như vậy sẽ giúp giá cổ phiếu của các bên liên quan tăng. Nhưng cả hai mã Nvidia và Microsoft đều không phản ứng tích cực sau thông báo về Anthropic.

    Các nhà phân tích Deutsche Bank cho rằng đây là dấu hiệu cho thấy nhà đầu tư ngày càng thận trọng. “Những thương vụ đầu tư chéo lĩnh vực AI đang được dè chừng cao hơn, khi các cuộc thảo luận về khả năng xuất hiện bong bóng AI ngày càng tăng”, nhóm phân tích đánh giá.

    Một số công ty như Meta Platforms và Oracle đang phụ thuộc nhiều vào vay nợ để tài trợ cho tham vọng AI của họ. Chiến lược này khiến các nhà đầu tư lo ngại, phản ánh qua giá cổ phiếu giảm mạnh hơn các công ty cùng ngành những tuần gần đây.

    Cổ phiếu của Meta và Oracle đều giảm hơn 20% kể từ cuối tháng 10. Theo chuyên gia Stephen Innes của SPI Asset Management, thị trường vẫn đang trong trạng thái dao động giữa sự hưng phấn AI và nỗi lo về một đợt điều chỉnh do nợ nần.

    Các Big Tech khác đang có lợi nhuận cao đến mức có thể dùng tiền mặt để tiếp tục đổ vào AI. Đứng sau Nvidia và Apple, bảng xếp hạng các công ty vốn hóa lớn nhất hành tinh cũng là những cái tên đang hăng hái đầu tư AI, gồm Alphabet, Microsoft và Amazon. Giá trị thị trường bộ ba này hiện dao động từ 2.300 đến 3.600 tỷ USD.

    Chris Zaccarelli, Giám đốc đầu tư công ty quản lý tài sản Northlight Asset Management thừa nhận định giá các công ty liên quan đến AI đang ở mức cao và thị trường đang có dấu hiệu bong bóng. Tuy nhiên, việc chi tiêu cho công nghệ này cũng có thật. “Việc chi tiêu có bị quá mức hay không thì phải mất nhiều năm nữa mới biết được”, ông đánh giá.

  • Matcha Nhật khan hiếm nguồn cung Trung Quốc trỗi dậy

    Matcha Nhật khan hiếm nguồn cung Trung Quốc trỗi dậy

    Cơn sốt matcha đẩy giá tăng mạnh, khiến nguồn Nhật khan hiếm, trong khi nguồn cung Trung Quốc thành lựa chọn thay thế trong bối cảnh nhu cầu vượt xa khả năng chi trả.

    Trong hơn một năm qua, nhu cầu matcha tăng mạnh trên toàn cầu đã đẩy giá nguyên liệu này leo thang tại nhiều thị trường, trong đó có Việt Nam.

    Khảo sát tại TP HCM và một số tỉnh lân cận cho thấy, phần lớn quán cà phê đều đưa matcha vào thực đơn như một sản phẩm chủ lực mới và bán với mức giá cao hơn khoảng 18-20% so với các món đồ uống thông thường. Nhiều tiệm bánh cũng bổ sung các loại bánh mang hương vị matcha, khiến nguyên liệu này tiêu thụ nhanh và trở thành mặt hàng có giá tăng nhanh nhất trong nhóm sản phẩm pha chế.

    Hiện, giá bán matcha trên các sàn thương mại điện tử và cửa hàng chuyên kinh doanh ghi nhận mức tăng 20-30% so với cùng kỳ. Matcha nội địa có giá từ 790.000 đến 5 triệu đồng một kg, hàng từ Trung Quốc và Đài Loan dao động 500.000 đến 3 triệu đồng một kg. Matcha Nhật Bản tiếp tục giữ vị trí cao nhất thị trường. Dòng phổ biến có giá 1-5 triệu đồng một kg; loại premium 8-15 triệu đồng một kg; còn loại ceremonial grade – vốn dành cho phân khúc rất cao, có giá 25-40 triệu đồng một kg nhưng khan hiếm.

    Matcha ngày càng xuất hiện nhiều ở các tiệm đồ uống, bánh ở TP HCM. Ảnh: NVCC

    Tại Hà Nội và TP HCM, nhiều chủ quán trà và nhân viên pha chế thừa nhận họ đang chịu áp lực chi phí lớn khi giá matcha Nhật tăng liên tục.

    Ông Nguyên, chủ quán cà phê rộng hơn 100 m2 ở phường Tân Định, cho biết giá nhập loại nguyên liệu cao cấp đã tăng khoảng 40%, đồng thời thời gian đặt hàng kéo dài do nguồn cung hạn chế. Năm nay, xu hướng người tiêu dùng ưa chuộng đồ uống có sử dụng matcha khiến nhiều khách sẵn sàng chi thêm tiền để trải nghiệm. Tuy nhiên, khi giá đồ uống cao liên tục tăng, thậm chí cao gấp 2-3 lần so với mặt bằng chung, số lượng bán ra có xu hướng giảm do giới hạn về khả năng chi trả của khách hàng.

    Tương tự, chủ một tiệm bánh tại phường An Hội Đông cũng cho hay khách hàng yêu cầu nhiều sản phẩm có vị matcha nhưng chi phí nguyên liệu Nhật Bản quá cao khiến giá bán khó cạnh tranh. Vì vậy, cơ sở của ông chuyển sang sử dụng matcha từ Việt Nam, Đài Loan hoặc Quý Châu (Trung Quốc) để giữ giá hợp lý. Theo tính toán của ông, một chiếc bánh 150 gram nếu dùng matcha Nhật có thể lên đến 100.000 đồng, trong khi dùng matcha Quý Châu chỉ bằng khoảng một phần ba.

    Không chỉ các cửa hàng F&B, nhiều nhà nhập khẩu và nhà phân phối cũng thay đổi chiến lược. Khảo sát tại TP HCM cho thấy, các doanh nghiệp, cửa hàng ngày càng lựa chọn nguyên liệu có giá phù hợp. Một doanh nghiệp nhập khẩu matcha tại phường Bình Thạnh cho biết, hàng Nhật vốn bán chạy trước đây hiện tiêu thụ rất chậm, còn matcha Quý Châu đang chiếm 60% lượng hàng nhập mới của doanh nghiệp ông.

    Đại diện Oishi Deli Việt Nam – đơn vị đầu tiên đưa matcha đặc sản Quý Châu vào Việt Nam, nhận định doanh nghiệp F&B buộc phải đa dạng hóa nguồn cung khi chi phí đầu vào tăng. Theo vị này, matcha Quý Châu có màu sắc, độ mịn và vị umami tương tự matcha Nhật nhưng giá chỉ bằng khoảng một phần ba, giúp doanh nghiệp duy trì biên lợi nhuận. Sự chuyển dịch này diễn ra trong bối cảnh các nhà nhập khẩu toàn cầu tìm nguồn cung ổn định và kinh tế hơn do thiếu nguyên liệu và chi phí tăng trên diện rộng.

    Quý Châu – vùng trồng trà truyền thống của Trung Quốc, đang nổi lên nhanh chóng. Tân Hoa Xã dẫn số liệu từ cơ quan chức năng Trung Quốc cho thấy, huyện Giang Khẩu, Quý Châu (Trung Quốc) đạt doanh số hơn 1.200 tấn matcha trong năm ngoái, tương đương 300 triệu nhân dân tệ. Thành phố Đồng Nhân sở hữu nhà máy matcha lớn nhất thế giới, công suất hơn 4.000 tấn mỗi năm. Tỉnh Quý Châu hiện là địa phương xuất khẩu matcha lớn nhất Trung Quốc và đứng thứ ba toàn cầu.

    Trước đây, matcha Trung Quốc chủ yếu dùng làm hương liệu cho bánh kẹo và không được chuộng để pha uống. Tuy nhiên, Theo Cục nông nghiệp tỉnh Quý Châu, nơi đây đã cải thiện hình ảnh bằng việc áp dụng tiêu chuẩn chất lượng nghiêm ngặt, đạt các chứng nhận EU và USDA Organic. Địa phương này còn cấm 128 loại thuốc trừ sâu và vượt qua hơn 500 bài kiểm tra an toàn thực phẩm của EU, giúp sản phẩm được dán nhãn “EU Standard Matcha”.

    Tại Việt Nam, thị trường matcha dự kiến tăng trưởng CAGR 14,8% đến năm 2031. Tuy nhiên, doanh nghiệp F&B gặp áp lực lớn về chi phí nguyên liệu, nhân công và vận hành. Báo cáo của iPOS cho thấy 45,3% doanh nghiệp F&B đã tăng giá trong nửa đầu năm 2025. Các chuyên gia nhận định sự phụ thuộc vào nguồn cung Nhật khiến chi phí đội lên nhanh, buộc doanh nghiệp phải tìm nguồn thay thế như Quý Châu.

    Ở phạm vi toàn cầu, nhu cầu matcha tăng mạnh khiến chuỗi cà phê lớn như Starbucks hay Luckin Coffee tung liên tục sản phẩm mới. Các nhà cung ứng ghi nhận đơn hàng từ cả Mỹ, Ba Lan và Kazakhstan, khiến nguyên liệu nhiều lần rơi vào tình trạng “cháy hàng”. Giá nguyên liệu làm matcha tại Kyoto đã tăng từ 5.500 yen một kg lên hơn 14.000 yen một kg, theo Financial Times . Một chuyên viên thu mua tại Mỹ cho biết ông đã phải trả giá cao hơn 75% cho matcha Nhật vụ 2025 và dự báo matcha phân khúc thấp cũng tăng 30-50% trong thời gian tới.