Tag: news-and-event

  • Hãng dược Mỹ đạt vốn hóa 1 000 tỷ USD nhờ thuốc giảm cân

    Hãng dược Mỹ đạt vốn hóa 1 000 tỷ USD nhờ thuốc giảm cân

    Eli Lilly là hãng dược đầu tiên gia nhập nhóm vốn hóa 1.000 tỷ USD, nhờ thuốc chữa tiểu đường và béo phì bán chạy nhất thế giới.

    Chốt phiên giao dịch 21/11, cổ phiếu hãng dược Eli Lilly (Mỹ) tăng 1,6%, kéo vốn hóa hãng này lên 1.000 tỷ USD. Đây là hãng dược đầu tiên gia nhập nhóm này, vốn được thống trị bởi các đại gia công nghệ.

    Từ đầu năm, cổ phiếu này đã tăng hơn 36%. Giới phân tích tính toán khoảng 35% mức tăng này đến từ sự bùng nổ của thị trường thuốc giảm cân. 2 năm qua, các loại thuốc điều trị béo phì liên tiếp được tung ra thị trường. Nhóm thuốc này đã trở thành một trong những mảng sinh lợi nhất của ngành y tế.

    Logo bên ngoài trụ sở của Eli Lilly tại San Diego, California. Ảnh: Reuters

    Doanh số bán thuốc chứa hoạt chất tirzepatide của Lilly, được bán dưới tên thương mại là Mounjaro chữa tiểu đường type 2 và Zepbound điều trị béo phì, đã vượt qua Keytruda của Merck và trở thành loại thuốc bán chạy nhất thế giới.

    Novo Nordisk (Đan Mạch) từng dẫn đầu thị trường, nhưng Mounjaro và Zepbound đã nhanh chóng phổ biến và giúp Lilly vượt đối thủ. Lilly hưởng lợi một phần nhờ đợt ra mắt Wegovy của Novo năm 2021 bị gián đoạn do thiếu nguồn cung. Các loại thuốc của hãng này cũng cho thấy hiệu quả lâm sàng mạnh hơn. Lilly còn mở rộng sản xuất và mạng lưới phân phối nhanh hơn.

    Diễn biến giá cổ phiếu hãng này phản ánh kỳ vọng của nhà đầu tư rằng nhu cầu thuốc điều trị béo phì sẽ tiếp tục mạnh. Từ khi Zepbound ra mắt cuối 2023, cổ phiếu Lilly đã tăng hơn 75%, cao hơn nhiều mức tăng 50% của chỉ số S&P 500 cùng giai đoạn.

    Quý trước, Lilly ghi nhận doanh thu hơn 10 tỷ USD từ thuốc chữa tiểu đường và béo phì, đóng góp hơn nửa doanh thu cho họ. “Định giá hiện tại phản ánh niềm tin của nhà đầu tư vào khả năng duy trì tăng trưởng dài hạn của mảng thuốc điều trị các bệnh chuyển hóa. Nó cũng cho thấy nhà đầu tư đang ưu tiên Lilly hơn Novo trong cuộc đua thuốc béo phì”, Evan Seigerman – nhà phân tích tại BMO Capital Markets – nhận định.

    Tháng trước, Lilly nâng dự báo doanh thu năm thêm hơn 2 tỷ USD, nhờ nhu cầu toàn cầu tăng mạnh với thuốc béo phì và tiểu đường. Phố Wall ước tính thị trường thuốc giảm cân sẽ đạt quy mô 150 tỷ USD năm 2030. Lilly và Novo sẽ kiểm soát phần lớn doanh số toàn cầu.

    Nhà đầu tư hiện tập trung vào thuốc uống điều trị béo phì của Lilly, orforglipron, dự kiến được phê duyệt đầu năm tới.

  • Ngưỡng chịu thuế cho hộ kinh doanh nên như thế nào

    Ngưỡng chịu thuế cho hộ kinh doanh nên như thế nào

    Mức doanh thu chịu thuế 200 triệu đồng với hộ kinh doanh được đánh giá là bất cập, cần điều chỉnh phù hợp hơn với mặt bằng giá, chi phí và mức sống hiện nay.

    Chị Lê Thị Hồng, chủ một quầy bún trong ngõ nhỏ tại phường Hà Đông (Hà Nội), phản ánh doanh thu bình quân của quán chỉ khoảng 1-1,3 triệu đồng mỗi ngày, tương đương 30-40 triệu đồng một tháng. Sau khi trừ chi phí thực phẩm, tiền thuê mặt bằng 8 triệu đồng một tháng và chi phí điện nước, lợi nhuận ròng chỉ còn 7-9 triệu đồng. Mức này thấp hơn giảm trừ gia cảnh cho một cá nhân làm công ăn lương.

    Tuy vậy, tổng doanh thu năm của chị vẫn vượt ngưỡng 200 triệu đồng, đồng nghĩa phải nộp thuế khoán và lệ phí môn bài như một hộ kinh doanh ổn định, trong khi thực tế lợi nhuận mỏng, không ổn định. “Doanh thu cao trên giấy, nhưng phần lớn là chi phí đầu vào. Lợi nhuận thực nhận không tương xứng với nghĩa vụ thuế”, chị nói.

    Trường hợp của chị Hồng không cá biệt. Nhiều hộ kinh doanh nhỏ lẻ như hàng nước, tạp hóa, quầy ăn sáng trên địa bàn Hà Nội đều có doanh thu vượt mức 200 triệu đồng một năm vì chi phí đầu vào và giá nguyên liệu tăng, chứ không phải mở rộng quy mô hay tăng lợi nhuận. Điều này cho thấy ngưỡng doanh thu 200 triệu đồng mỗi năm – được thiết kế từ bối cảnh giá cả thấp hơn nhiều năm trước – đang trở nên lạc hậu, chưa phản ánh đúng thực trạng kinh doanh nhỏ lẻ đô thị.

    Người dân làm thủ tục đăng ký hộ kinh doanh tại trung tâm hành chính công tại UBND xã Bà Điểm, TP HCM. Ảnh: Đình Văn

    Theo số liệu từ Bộ Tài chính, đến cuối 2024, cả nước có 3,6 triệu hộ kinh doanh được quản lý thuế, trong đó gần 2 triệu hộ nộp thuế khoán. Mức thu bình quân mỗi hộ khoảng 672.000-700.000 đồng một tháng. Năm ngoái, tổng thu ngân sách từ nhóm hộ và cá nhân kinh doanh đạt khoảng 26.000 tỷ đồng. Nửa đầu năm nay, số này ước đạt trên 17.000 tỷ.

    Từ 1/1/2026, nhà điều hành sẽ chấm dứt thu thuế khoán với hộ kinh doanh và chuyển sang quản lý theo tự kê khai, nộp thuế. Trong bối cảnh Chính phủ đang rà soát chính sách thuế với hộ kinh doanh, nhiều ý kiến đề xuất xem xét điều chỉnh ngưỡng doanh thu chịu thuế lên mức phù hợp hơn với mặt bằng giá, chi phí và mức sống hiện nay.

    Theo ông Nguyễn Văn Được, Tổng giám đốc Công ty TNHH Kế toán và tư vấn thuế Trọng Tín, ngưỡng doanh thu chịu thuế từ 200 triệu đồng với hộ kinh doanh là bất bình đẳng khi so sánh với người làm công ăn lương. Theo ông, doanh thu miễn thuế nên được tính bằng giá trị gia tăng của hộ kinh doanh tạo ra tương ứng với mức giảm trừ gia cảnh cho bản thân của người làm công ăn lương.

    Ông tính toán ngưỡng doanh thu 1 tỷ đồng là “hợp lý, phần nào tạo sự công bằng, bình đẳng giữa người nộp thuế”. Mức này cũng phù hợp với quy định hộ kinh doanh có doanh thu từ 1 tỷ đồng trở lên phải sử dụng máy tính tiền kết nối với cơ quan thuế, giúp chính sách có tính đồng bộ và tạo thuận tiện cho người nộp thuế.

    Ông Được dẫn số liệu của Thuế TP HCM đến tháng 7/2025 cho thấy có gần 249.000 hộ kinh doanh khoán, trong đó 92,6% ghi nhận doanh thu dưới 1 tỷ đồng. Từ số liệu này, phương án doanh thu miễn thuế 1 tỷ đồng không ảnh hưởng lớn đến thu ngân sách nhà nước. Phương án này, theo ông, còn tiết kiệm chi phí tuân thủ cho người nộp thuế và thúc đẩy hoạt động của hộ kinh doanh, đặc biệt hộ có quy mô nhỏ và ở vùng sâu, vùng xa.

    Tương tự, theo Chủ tịch Hội Tư vấn Thuế Việt Nam Nguyễn Thị Cúc, nếu chia 200 triệu đồng cho 360 ngày, doanh thu bình quân chưa đến 600.000 đồng mỗi ngày. Với giá một bát phở 40.000 – 50.000 đồng, một quán chỉ cần bán khoảng 15 bát mỗi ngày đã vượt mốc doanh thu này.

    Do đó, mức 200 triệu đồng một năm đã lỗi thời, cần nâng lên 1 tỷ đồng để phù hợp bối cảnh kinh tế hiện nay. Bà tính toán với doanh thu 1 tỷ đồng mỗi năm, lợi nhuận bình quân khoảng 16%, tương đương 160 triệu đồng, hay khoảng 13,3 triệu đồng mỗi tháng. Mức này tương đương thu nhập của một lao động làm công đang được áp dụng mức giảm trừ gia cảnh 15,5 triệu đồng.

    Tiểu thương kinh doanh tại chợ Bến Thành. Ảnh: Quỳnh Trần

    Thống kê của cơ quan thuế cho thấy nếu áp ngưỡng 200 triệu đồng, khoảng 44,4% số hộ kinh doanh sẽ được miễn thuế thu nhập cá nhân. Song bà Cúc cho rằng lâu nay các hộ kinh doanh thường có “thói quen” khai thấp doanh thu, hay nói cách khác là họ che giấu khá nhiều doanh thu.

    Thực tế cho thấy vẫn còn những trường hợp chênh lệch rất lớn giữa doanh thu kê khai và doanh thu thật. Tại Hà Nội, một trường hợp vừa bị khởi tố vì khai 155 triệu đồng trong khi doanh thu thật lên tới 100 tỷ đồng. Ở Vũng Tàu, hai trường hợp khác thậm chí không kê khai đồng thuế nào dù doanh thu hàng trăm tỷ đồng.

    Do đó, bà Cúc cho rằng vấn đề then chốt nằm ở sự minh bạch trong kê khai, qua đó cơ quan quản lý mới có cơ sở để xây dựng mức miễn thuế hợp lý và công bằng. Về phía cơ quan hoạch định chính sách, họ cần đưa ra mức ngưỡng đủ để khuyến khích hộ kinh doanh khai đúng, thay vì cố tình khai thấp.

    Ở khía cạnh này, ông Nguyễn Ngọc Tịnh, Phó chủ tịch Hội Tư vấn và Đại lý Thuế TP HCM, cũng cho rằng ngưỡng miễn thuế bao nhiêu cần được xác định dựa trên các dữ liệu thống kê đáng tin cậy. Theo ông, nhà điều hành cần khảo sát diện rộng để xác định doanh thu, chi phí và biên lợi nhuận của hộ kinh doanh (thậm chí cụ thể theo từng lĩnh vực kinh doanh) trước khi ấn định ngưỡng này.

    Theo ông Tịnh, chính sách thuế chỉ bền vững khi dựa trên dữ liệu đầy đủ và được điều chỉnh định kỳ (ví dụ 5 năm) theo các chỉ số khách quan như CPI hay GDP bình quân đầu người. Chính sách thiết thực sẽ tạo động lực cũng như phát huy hết vai trò của hộ kinh doanh trong cấu trúc nền kinh tế là tạo công ăn việc làm và trở thành vườn ươm khởi nghiệp.

    Phân tích cụ thể hơn, ông Nguyễn Quang Huy, CEO Khoa Tài chính – Ngân hàng (Đại học Nguyễn Trãi) cho rằng hộ kinh doanh khác với một doanh nghiệp. Bởi, họ không chỉ là một chủ thể kinh tế mà còn là một cấu trúc xã hội mang tính gia đình. Nhiều hộ có 2-3, thậm chí 4 thành viên cùng tham gia sản xuất, buôn bán, phục vụ khách hàng. Tất cả lao động, thời gian, chi phí sinh hoạt, khấu hao tài sản gia đình… đều đan xen, không tách bạch như trong mô hình doanh nghiệp.

    Vì vậy, theo chuyên gia, việc chỉ dùng tổng doanh thu làm căn cứ đánh thuế sẽ dễ dẫn đến sai lệch trong việc đánh giá khả năng nộp thuế, đặc biệt với những ngành nghề có lợi nhuận thấp, chi phí vận hành cao hoặc hộ có nhiều lao động gia đình phụ thuộc vào nguồn thu chung.

    “Nhiều trường hợp, doanh thu của hộ có thể lớn nhưng lợi nhuận ròng lại rất nhỏ, chỉ đủ để nuôi sống các thành viên gia đình. Nếu không tính đúng và đủ, việc nộp thuế sẽ thành gánh nặng, làm giảm động lực kinh doanh, khả năng tái đầu tư và ảnh hưởng đến an sinh của các hộ lao động tự do”, ông lưu ý.

    Về giải pháp, chuyên gia cho rằng nhà điều hành cần xây dựng công thức xác định ngưỡng chịu thuế dựa trên bản chất kinh tế, không chỉ dựa trên doanh thu. Theo đó, cơ quan quản lý cần xác định doanh thu thực tế của hộ, khấu trừ chi phí hợp lý để tính lợi nhuận ròng. Đồng thời, phần lợi nhuận ròng cần được chia cho số thành viên lao động trực tiếp trong gia đình, sau đó so sánh thu nhập bình quân này với ngưỡng chịu thuế thu nhập cá nhân.

    “Nếu thu nhập bình quân thấp hơn mức khởi điểm chịu thuế thu nhập cá nhân, hộ đó chưa nên chịu nghĩa vụ thuế”, ông nói. Theo ông, cách tiếp cận này công bằng giữa hộ kinh doanh và người làm công ăn lương, các ngành nghề có tỷ suất lợi nhuận khác nhau. Phương pháp này cũng thể hiện tinh thần “đánh thuế theo khả năng nộp thuế, không đánh thuế vào sinh kế”.

    Bên cạnh đó, chuyên gia cũng lưu ý chính sách thuế không thể “cào bằng”, bởi kinh tế hộ có sự phân hóa rõ rệt về biên lợi nhuận. Chẳng hạn, ngành thương mại – bán lẻ – đại lý có lợi nhuận thấp, thường 3-8% – tức doanh thu cao chưa chắc đủ sống. Dịch vụ ăn uống – lưu trú lợi nhuận tầm 8-15% nhưng chi phí đầu vào, mặt bằng, thất thoát cao. Dịch vụ cá thể (sửa xe, cắt tóc, sửa chữa điện nước) có thu nhập phụ thuộc công lao động, trong khi sản xuất thủ công nhỏ có nguyên liệu biến động, công lao động cao. Hay các dịch vụ chuyên môn nhỏ (kế toán, thiết kế, IT freelance) có lợi nhuận cao hơn, nhưng không ổn định theo mùa vụ.

    “Một ngưỡng doanh thu phù hợp cho ngành này có thể bất hợp lý với ngành khác”, ông nói, cho rằng chính sách mới cần thiết kế theo hướng ngưỡng doanh thu chịu thuế phân theo nhóm ngành, bảo đảm sát thực tế và giảm xung đột. Ngoài ra, nhà điều hành có thể tính tới yếu tố vùng miền bởi chi phí sinh hoạt khác nhau sẽ có ngưỡng doanh thu khác nhau.

    “Hà Nội, TP HCM có mặt bằng, thực phẩm, vận chuyển, nhân công đều đắt đỏ so với hộ kinh doanh ở các tỉnh miền núi. Cùng một doanh thu nhưng lợi nhuận thực tế ở thành phố lớn thường thấp hơn vì chi phí đầu vào cao gấp 2-3 lần”, ông dẫn chứng.

  • COP30 vướng bài toán tài chính thích ứng bão lũ ngày càng nhiều

    COP30 vướng bài toán tài chính thích ứng bão lũ ngày càng nhiều

    Thời tiết cực đoan như bão lũ, hạn hán ngày càng dày đặc nhưng COP30 vẫn loay hoay tìm lời giải tài chính cho các nước đang phát triển.

    Khi Thales Bevilacqua Mendonca rời trang trại ở bang Parana để bay 5 tiếng lên Bắc Brazil dự Hội nghị lần thứ 30 của các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP30), thời tiết lạnh bất thường, chỉ 7 độ C.

    Ở Parana, mùa hè ngày càng nóng hơn, mùa đông lạnh hơn và hạn hán xuất hiện thường xuyên. Ngày 7/11, lốc xoáy đã tàn phá thị trấn Rio Bonito do Iguacu thuộc Parana, khiến 6 người thiệt mạng.

    Bevilacqua Mendonca, 35 tuổi, Quản lý quan hệ toàn cầu tại mạng lưới quốc tế hỗ trợ nông dân canh tác hữu cơ (INOFO) kỳ vọng các nhà đàm phán tại COP30 sẽ hành động nhiều hơn để hỗ trợ nông hộ nhỏ thích ứng với thời tiết cực đoan.

    Theo ông, nông hộ nhỏ cung cấp hơn một nửa lượng calo cho thế giới nhưng đang đối mặt với những hậu quả khí hậu nghiêm trọng nhất và chỉ nhận được chưa đến 1% nguồn tài chính cần thiết.

    “Các cuộc thảo luận về mục tiêu toàn cầu cần thực sự hướng đến chúng tôi”, ông nói. Theo đại diện INOFO, ngành nông nghiệp cần vốn để tiếp cận kiến thức và phát triển hệ thống cảnh báo sớm các hiện tượng thời tiết nguy hiểm.

    Nước lũ do bão Fung Wong dâng cao ở Pandan, tỉnh Catanduanes, Philippines ngày 9/11. Ảnh: AFP

    Khoảng 3,6 tỷ người – tương đương gần một nửa dân số toàn cầu, dễ tổn thương cao trước tác động khí hậu, từ hạn hán đến bão lụt. Giai đoạn 1995 – 2024, hơn 832.000 ca tử vong và gần 4.500 tỷ USD thiệt hại kinh tế trực tiếp do thời tiết cực đoan, theo Chỉ số Rủi ro Khí hậu của Germanwatch.

    Bà Lidy Nacpil, đại biểu đã tham dự 16 kỳ COP từ Philippines nói bão đã trở thành “bình thường mới” với nước này. Đặc phái viên Chủ tịch COP30 tại châu Phi Carlos Lopes nói các sự kiện thời tiết cực đoan xảy ra với tần suất cao hơn, với nhiệt độ thường xuyên lên tới 50 độ C ở Bắc Phi và lũ lụt hàng năm ở Đông Phi.

    Để giảm tác động của thời tiết cực đoan, toàn cầu cần khả năng thích ứng bằng cách đầu tư vào hạ tầng chống ngập, nông nghiệp chống hạn, hệ thống cảnh báo sớm và các cơ chế chuyển giao rủi ro như bảo hiểm. Tất cả đều cần nguồn tài chính quy mô lớn mà các nước kém và đang phát triển khó tự xoay xở.

    Theo Báo cáo Khoảng cách Thích ứng (Adaptation Gap) mới nhất của Liên Hợp Quốc – đánh giá sự chênh lệch giữa các biện pháp ứng phó biến đổi khí hậu đã triển khai và nhu cầu thực tế, các nước đang phát triển cần 310 – 365 tỷ USD mỗi năm để thích ứng.

    Tuy nhiên, năm 2023, họ chỉ nhận được 26 tỷ USD, thậm chí đi lùi so với mức 28 tỷ USD của 2022. Theo báo cáo, nhu cầu tài chính ở các nước đang phát triển cho thích ứng với biến đổi khí hậu cao hơn từ 12 đến 14 lần so với dòng vốn hiện tại.

    “Khoảng cách tài chính thích ứng đang ngày càng lớn và chi phí thích ứng vẫn rất cao. Việc thống nhất mục tiêu tài chính là điều quan trọng”, bà Anne Rasmussen, Quyền chủ tịch Liên minh các Quốc đảo Nhỏ (AOSIS) cho biết bên lề hội nghị.

    Bà ví dụ như bão Melissa tàn phá vùng Caribe tháng trước khiến nhiều quốc gia bị kéo lùi hàng chục năm. “Khi chúng ta vừa tái thiết xong và đứng vững trở lại, cơn bão khác lại đến, rồi hạn hán cực đoan, đợt nắng nóng mới”, bà nói.

    Tài chính để giúp các cộng đồng dễ tổn thương tăng khả năng chống chịu là một trong các chủ đề trọng tâm tại COP30. Tuy nhiên, thách thức đã nổi lên ngay từ khâu xác định các tiêu chí để phân bổ, chưa nói đến việc tăng huy động tiền ra sao.

    Thỏa thuận Paris 2015 từng thông qua Mục tiêu Toàn cầu về Thích ứng (Global Goal on Adaptation) nhằm đưa ra khung đo lường tiến độ nhưng đến nay vẫn chưa có cách theo dõi rõ ràng. Vì thế, tại hội nghị lần này, các quốc gia đang cố gắng thống nhất bộ 100 chỉ số dùng chung để đánh giá hiệu quả thích ứng khí hậu và xác định ai là nhóm dễ bị tổn thương nhất khi phân bổ tài trợ.

    Nhưng ngay tuần đầu COP30, bất đồng đã xuất hiện. Một số quốc gia lo ngại bộ chỉ số sẽ bị dùng làm điều kiện để nhận tài trợ, trong khi các nước khác muốn có hỗ trợ tài chính để triển khai việc báo cáo chỉ số.

    Sebastian Osborn, Quản lý chính sách toàn cầu tại Mercy For Animals, cho rằng bộ chỉ số nên đóng vai trò định hướng. Trong khi, Illari Aragon, Phụ trách chính sách khí hậu của Christian Aid lo ngại nó làm tăng bất bình đẳng hoặc dẫn đến những dự án kém hiệu quả.

    “Chúng tôi không muốn các chỉ số được thông qua trở thành lý do để tài chính rơi vào những dự án tệ hại, như đê chắn sóng ở Philippines từng chặn hệ thống thoát nước, gây hậu quả nghiêm trọng hơn”, bà nói.

    Mohamed Adow, Giám đốc tổ chức Power Shift Africa đánh giá bộ chỉ số có thể mang lại “ngôn ngữ chung” để đo lường tiến độ nhưng vấn đề cấp thiết vẫn là tiền. Ông cho rằng việc “giả vờ “đang tiến bộ bằng cách đồng ý một hệ thống đo lường có thể khiến các nước xao nhãng khỏi mục tiêu thực sự là huy động tài chính.

    “Xuất thân nghề chăn thả, tôi hiểu rằng dù có cân một con bò bao nhiêu lần đi nữa thì nó cũng không thể béo lên”, ông nói. Theo nghiên cứu do Viện Tài nguyên Thế giới (WRI) công bố hồi tháng 5, mỗi 1 USD đầu tư vào thích ứng biến đổi khí hậu có thể mang lại hơn 10,5 USD lợi ích kinh tế, xã hội và môi trường.

    Tại COP26 ở Glasgow năm 2021, các nước giàu từng cam kết tăng gấp đôi tài chính cho thích ứng, nhưng thỏa thuận sẽ hết hiệu lực trong năm nay. Nhóm 44 quốc gia kém phát triển nhất (LDC Group) đang kêu gọi tăng gấp ba tài chính thích ứng dạng viện trợ không hoàn lại lên ít nhất 120 tỷ USD vào năm 2030.

    Phương án thay thế cam kết Glasgow 2021 chưa được chốt. Điểm sáng gần nhất tại COP30 là Bỉ, Iceland, Ireland, Luxembourg, Tây Ban Nha, Thụy Điển công bố góp tổng cộng 58,5 triệu USD vào Quỹ Thích ứng (Adaptation Fund) quy mô 1,7 tỷ USD, chuyên viện trợ các dự án khí hậu nhỏ. Đức cũng cho biết sẽ đóng góp nhưng chưa cung cấp con số cụ thể.

    Với các nông hộ nhỏ, “mọi thứ đang cấp bách hơn bao giờ hết”, theo Bevilacqua Mendonca. Trang trại của ông áp dụng mô hình nông – lâm, kết hợp cây thân gỗ, cây bụi với cây trồng hoặc vật nuôi, nhằm cải thiện sức khỏe đất và năng suất. Ngoài ra, hệ thống này cũng giúp giảm phát thải nhờ khả năng hấp thụ carbon.

    “Chúng tôi có những cách sản xuất thực phẩm khác với mô hình nông nghiệp công nghiệp. Nông trại lớn mất lợi nhuận khi thiệt hại vì thiên tai, còn chúng tôi mất sinh kế lẫn mất an ninh lương thực”, ông nói.

    Phiên An ( theo Reuters, InfoAmazonia )

  • Những quỹ ETF nào sẽ rót tiền vào Việt Nam

    Những quỹ ETF nào sẽ rót tiền vào Việt Nam

    Chứng khoán ACB dự đoán 12 quỹ ETF toàn cầu có thể rót vốn vào Việt Nam, nổi bật là nhà quản lý tài sản lớn nhất toàn cầu Vanguard.

    Báo cáo gần đây của Chứng khoán ACB (ACBS) đưa ra danh sách các quỹ thụ động sẽ rót vốn vào Việt Nam sau khi được FTSE Russell nâng hạng lên thị trường mới nổi thứ cấp. Cụ thể sau khi chính thức được nâng hạng vào tháng 9/2026, dòng vốn từ các quỹ ETF đầu tư vào thị trường Việt Nam theo ACBS ước tính ghi nhận thêm khoảng 435,4 triệu USD.

    Trong đó, quỹ có tài sản ròng lớn nhất tính đến ngày 10/11 là Vanguard FTSE Emerging Markets. Đây là quỹ mô phỏng chỉ số FTSE Emerging All Cap với tài sản ròng ghi nhận 105,5 tỷ USD. Như vậy với việc Việt Nam chiếm 0,34% tỷ trọng của chỉ số này, dự kiến quỹ sẽ phân bổ khoảng 358,5 triệu USD.

    Ước tính của ACBS được đưa ra sau thông tin Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (SSC) có buổi làm việc với đại diện Quỹ đầu tư Vanguard vào tuần trước. Cuộc trao đổi tập trung vào các cơ hội hợp tác, phát triển và thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài.

    Tại buổi làm việc, đại diện Vanguard chia sẻ kế hoạch triển khai các hoạt động đầu tư tại Việt Nam sau khi thị trường chứng khoán được nâng hạng. Trong đó, quỹ sẽ mở tài khoản giao dịch và tài khoản vốn gián tiếp. Đơn vị quản lý tài sản này nhấn mạnh, quá trình thực hiện các thủ tục theo quy định mới sẽ là bước thử nghiệm quan trọng, giúp các nhà đầu tư toàn cầu có trải nghiệm thực tế về môi trường đầu tư tại Việt Nam.

    Quỹ đầu tư Vanguard (Vanguard Group) là một tập đoàn quản lý tài sản lớn của Mỹ, chuyên cung cấp các quỹ tương hỗ và quỹ ETF chi phí thấp. Họ là công ty phát hành quỹ tương hỗ lớn nhất thế giới và là một trong những nhà quản lý tài sản lớn nhất toàn cầu. Vanguard được xem là người tiên phong trong việc phát triển loại hình đầu tư quỹ chỉ số.

    Nhà đầu tư đang theo dõi bảng điện tử tại trụ sở một công ty chứng khoán ở TP HCM. Ảnh: Quỳnh Trần

    Tuần trước, FTSE Russell đã công bố tỷ trọng của thị trường Việt Nam khi tham gia các chỉ số mới. Cụ thể, Việt Nam sẽ chiếm 0,04% trong FTSE Global All Cap và 0,34% trong FTSE Emerging All Cap.

    Trước khi được nâng hạng, chưa có cổ phiếu nào của Việt Nam nằm trong rổ FTSE Global All Cap Index và FTSE Emerging All Cap vì cả hai chỉ số này chỉ theo dõi các thị trường phát triển và mới nổi. Nhiều quỹ đầu tư, quỹ ETF lớn trên thế giới thường sử dụng chỉ số các chỉ số trên làm cơ sở để theo dõi hiệu suất.

    Việt Nam được FTSE Russell xác nhận đáp ứng tất cả tiêu chí để được nâng hạng từ thị trường cận biên lên mới nổi vào ngày 8/10. Việc nâng hạng có hiệu lực từ ngày 21/9/2026, nhưng sẽ có đợt rà soát giữa kỳ vào tháng 3/2026.

    Tổ chức xếp hạng thị trường này cho biết, kỳ đánh giá vào tháng 3/2026 sẽ xem xét liệu Việt Nam đã đạt được đủ tiến bộ trong khâu tạo điều kiện tiếp cận cho công ty chứng khoán toàn cầu (global brokers) hay chưa. Đây là yếu tố cần thiết, hỗ trợ việc mô phỏng chỉ số một cách hiệu quả. Điều này cũng được kỳ vọng sẽ điều chỉnh thông lệ thị trường của Việt Nam theo chuẩn mực quốc tế, giảm thiểu rủi ro đối tác và củng cố niềm tin của nhà đầu tư thông qua mối quan hệ đã thiết lập với các bên trung gian uy tín.

  • Sức ép bủa vây doanh nghiệp nhỏ tại Mỹ

    Sức ép bủa vây doanh nghiệp nhỏ tại Mỹ

    Doanh nghiệp nhỏ – xương sống của kinh tế Mỹ – cùng lúc đối mặt với chi phí tăng, khó vay vốn giá rẻ và thiếu lao động.

    Doug Scheffel (Massachusetts) sở hữu công ty gia đình có tên ETM Manufacturing. Ông đã sa thải khoảng 25% nhân viên hồi tháng 4, do thuế nhập khẩu của chính quyền Tổng thống Mỹ Donald Trump khiến nhu cầu linh kiện máy móc và tấm kim loại sụt giảm.

    “Nhiều doanh nghiệp đang thu hẹp hoạt động và tích trữ tiền mặt. Mọi thứ chưa bao giờ xấu đi thế này”, Scheffel cho biết trên CNN . Ông phàn nàn tình hình bất ổn khiến mình không thể lập kế hoạch kinh doanh cho năm tới.

    ETM Manufacturing cũng không thể tận dụng cơ hội tăng trưởng vì chi phí vay quá cao. Lãi suất trung bình cho khoản vay của doanh nghiệp nhỏ ở thành thị cuối năm ngoái đã vượt 7%, theo Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) tại Kansas. Tuy nhiên, nhiều công ty nhỏ phải vay với mức hơn 10%.

    Giá nhiều nhu yếu phẩm tăng cũng khiến một số nhân viên của ETM bận tâm hơn về tài chính cá nhân. “Hầu hết nhân viên của chúng tôi bị xao nhãng. Họ lo chuyện thức ăn và mua giày cho con. Việc kinh doanh có thể chịu ảnh hưởng nếu họ không tập trung làm việc”, Scheffel nói.

    Khoảng 25% hộ gia đình Mỹ hiện phải sống”‘paycheck to paycheck” – đồng nghĩa họ tiêu hơn 95% thu nhập cho nhu cầu thiết yếu như nhà ở và thực phẩm, theo ước tính của Bank of America.

    Bryan Pate – CEO công ty bán xe đạp và ván trượt PT Motion Works, tại San Diego. Ảnh: ElliptiGO

    Các công ty nhỏ là xương sống của kinh tế Mỹ, chiếm phần lớn tổng số doanh nghiệp, tuyển dụng một nửa lao động và đóng góp hầu hết tăng trưởng việc làm. Tuy nhiên, tâm trạng của họ hiện khá trái chiều. Họ vẫn kỳ vọng vào tương lai và hứng thú với cách AI hỗ trợ mình, nhưng cũng lo ngại vì cuộc chiến thương mại thay đổi liên tục và chi phí cao.

    Bryan Pate – CEO công ty bán xe đạp và ván trượt PT Motion Works tại San Diego cho biết doanh nghiệp của ông chật vật vì chi phí bảo hiểm y tế tăng quá nhanh. Đây là điểm bất lợi khi tìm cách thu hút lao động.

    Trong 20 năm qua, chi phí trung bình cho gói bảo hiểm y tế cá nhân của công ty dưới 50 nhân viên đã tăng 120%, theo Liên đoàn Doanh nghiệp Độc lập Quốc gia (NFIB) – tổ chức hỗ trợ các công ty nhỏ tại Mỹ. “Thật không thể tin nổi”, Pate nói, cho rằng đây là bất lợi mà doanh nghiệp nhỏ gặp phải so với các tập đoàn lớn.

    Chi phí tăng khiến áp lực với doanh nghiệp càng lớn, đặc biệt trong bối cảnh thuế nhập khẩu lên cao nhất 80 năm. Ước tính của The Budget Lab thuộc Đại học Yale công bố đầu tuần này cho thấy ông Trump đã nâng mức thuế trung bình với hàng nhập khẩu Mỹ lên 16,8% – cao nhất kể từ năm 1935.

    “Chúng tôi không biết ông ấy sẽ làm gì tiếp theo. Việc này quá mất thời gian và khiến nhiều người lo sợ”, Pate đề cập đến chính sách thuế liên tục thay đổi. Ông cho biết việc kinh doanh bị ảnh hưởng nặng bởi thuế, vì nhiều mẫu xe của ông được lắp ráp tại Đài Loan, nơi hàng nhập khẩu chịu thuế 20% khi vào Mỹ.

    Tổng thống Trump khẳng định thuế nhập khẩu sẽ mang sản xuất quay về Mỹ, nhưng nghịch lý là thuế này đang làm giảm một số việc làm tại đây.

    Pate vừa chấm dứt hợp đồng với 7 lao động lắp ráp tại San Diego và chuyển sang thuê nhân công ở Mexico. Ông cũng dự định tăng giá xe để bù chi phí thuế, nhưng lo ngại việc này làm giảm nhu cầu. “Đó là gánh nặng kinh tế. Về dài hạn, nếu thuế giữ nguyên như hiện tại, mô hình kinh doanh của chúng tôi sẽ không thể vận hành”, ông nói.

    Bên lề một hội thảo của Goldman Sachs tại Washington, Troy Rackley – CEO hãng công nghệ xử lý nước The Next Level of Performance cho biết ông buộc phải tăng giá một số sản phẩm vì thuế áp lên hàng nhập từ Australia và Trung Quốc. Rackley không cho rằng các nước xuất khẩu phải trả thuế và hy vọng Tòa án Tối cao vô hiệu hóa thuế của ông Trump.

    “Trung Quốc, Mexico và Canada không trả. Tôi mới là người trả. Tôi đã đóng thuế thu nhập, và giờ phải đóng thêm thuế cho những gì tôi mang về”, ông phàn nàn.

    Khari Parker – đồng sáng lập Connie’s Chicken and Waffles tại Baltimore không gặp vấn đề thuế, nhưng chật vật khi tìm vốn vay giá rẻ. “Chúng tôi phải chịu mức lãi rất cao, 20-30%”, Parker nói.

    Chính quyền ông Trump vẫn đang nỗ lực hỗ trợ doanh nghiệp bằng cách cấp vốn thông qua Cơ quan Quản lý Doanh nghiệp nhỏ (SBA). Từ khi Tổng thống Trump nhậm chức, SBA ước tính đã phê duyệt hơn 58.000 khoản vay trị giá trên 32 tỷ USD. Họ cũng bảo lãnh các khoản vay khoảng 44,8 tỷ USD cho doanh nghiệp trong năm tài khóa 2025.

    Niềm tin của doanh nghiệp nhỏ từng tăng mạnh sau khi ông Trump nhậm chức, sau đó giảm khi Tổng thống công bố kế hoạch thuế nhập khẩu. Tâm lý sau đó phục hồi và hiện nhỉnh hơn so với mức trung bình 52 năm.

    Một thách thức khác với Parker là nhân sự. “Tìm người làm rất khó. Chúng tôi không thể lúc nào cũng có phúc lợi hoặc lương cạnh tranh như doanh nghiệp lớn”, Parker nói.

    Với một số doanh nghiệp xây dựng, khó khăn này càng trầm trọng hơn vì Mỹ siết nhập cư. Antonio McMillion – Chủ tịch MFP Management & Construction tại Maryland cho biết công ty buộc phải thuê lao động với mức lương cao hơn, khiến chi phí nhân công của một số dự án tăng tới 40%. “Chúng tôi có thể chuyển phần tăng giá này xuống khách hàng, nhưng như thế dễ mất hợp đồng”, ông nói.

    Dù vậy, Pate vẫn tỏ ra lạc quan khi nhân viên của ông không lùi bước. “Tình hình rất dễ khiến mọi người chán nản. Nhưng không ai bỏ cuộc cả”, ông nói.

  • Lợi nhuận của nhiều công ty bất động sản tăng mạnh

    Lợi nhuận của nhiều công ty bất động sản tăng mạnh

    Loạt ông lớn trong ngành bất động sản nhà ở như Sunshine, Hodeco, CII, Khang Điền, Nam Long… báo lãi tăng hàng chục đến hàng trăm phần trăm trong quý III.

    Theo số liệu thống kê của Chứng khoán SSI, lợi nhuận ròng quý III của các doanh nghiệp bất động sản trên sàn chứng khoán giảm 39,4% so với cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên, sự đi xuống này chủ yếu do lợi nhuận Vingroup, Vinhomes hạ xuống lần lượt 47% và 88% còn Novaland tiếp tục lỗ. “Nếu loại trừ ba doanh nghiệp này, lợi nhuận thực tế của ngành tăng 65%”, báo cáo của SSI nêu.

    Ở nhóm bất động sản nhà ở, Vinaconex báo lãi kỷ lục trong quý vừa rồi, đạt 3.282 tỷ đồng, gấp 41 lần so với cùng kỳ năm ngoái. Phía công ty cho biết họ đã ghi nhận khoản doanh thu hoạt động tài chính hơn 3.000 tỷ đồng trong kỳ nhờ việc chuyển nhượng dự án Cát Bà Amatina tại đặc khu Cát Hải, Hải Phòng.

    Sunshine Group công bố kết quả kinh doanh với doanh thu 4.235 tỷ đồng, gấp 26 lần so với cùng kỳ năm trước. Khấu trừ chi phí, lãi ròng của công ty đạt 1.358 tỷ đồng, cao nhất từ trước đến nay, gấp 52 lần năm ngoái. Doanh nghiệp cho biết đạt kết quả tích cực nhờ mở rộng danh mục dự án chuyển nhượng bất động sản và đầu tư.

    Trong quý III/2025, Nam Long đạt doanh thu thuần 1.877 tỷ đồng, tăng 406% so với cùng kỳ năm trước. Công ty báo lãi sau thuế 234 tỷ đồng, trong khi cùng kỳ năm ngoái lỗ hơn 40 tỷ đồng. Kết quả này chủ yếu đến từ việc bàn giao các dự án Akari City (Bình Tân), Southgate (Long An) và Cần Thơ Central Lake.

    Ngoài những cái tên trên, một loạt chủ đề đầu tư tên tuổi như Hodeco, CII, Khang Điền, Đất Xanh… đều báo lãi đi lên hàng chục đến hàng trăm phần trăm so với quý trước đó. Số liệu từ Chứng khoán Mirae Asset cho thấy khoảng 60% số doanh nghiệp ghi nhận lợi nhuận cải thiện trong quý III.

    Lý giải về nguyên nhân lợi nhuận của nhóm bất động sản tăng mạnh trong quý III, ông Trần Quốc Toàn, Giám đốc chi nhánh 2 – hội sở Công ty cổ phần Chứng Khoán Mirae Asset cho rằng các doanh nghiệp được khai thông câu chuyện pháp lý, bắt đầu bàn giao sản phẩm tại các dự án đang triển khai. Ông ví dụ Nam Long ghi nhận doanh thu từ dự án Akari, Đất Xanh bắt đầu bàn giao dự án The Prive hay An Gia cũng đang bán các sản phẩm tại dự án The Gió Riverside…

    Dữ liệu của CBRE cho thấy nguồn cung mở bán mới tại Hà Nội và TP HCM trong quý III đạt khoảng 17.000 căn, tăng lần lượt 20% so với quý II và 68% so với cùng kỳ năm ngoái, cho thấy xu hướng phục hồi tích cực của thị trường nhà ở.

    DIC Corp – doanh nghiệp có lợi nhuận gấp 7 lần trong quý III – cho biết họ ghi nhận kết quả tích cực nhờ việc kinh doanh bất động sản tại các dự án của mình. Theo đó, doanh thu của công ty đạt 1.339 tỷ đồng, tăng 2.732% so với thực hiện năm ngoái. Phát Đạt – “ông lớn” bất động sản phía Nam – chia sẻ trong giải trình nộp lên HoSE rằng lợi nhuận công ty được cải thiện nhờ việc bán hàng tại dự án Bắc Hà Thanh và Kỳ Đồng.

    Chuyên gia của Mirae Asset chia sẻ thêm “gánh nặng” chi phí tài chính của các doanh nghiệp được gỡ bỏ khi mặt bằng lãi suất cho vay kinh doanh đã giảm đáng kể so với cùng kỳ năm ngoái. “Áp lực trả nợ không còn ‘treo’ trên đầu, giúp họ ổn định tài chính và tập trung vào bán hàng”, ông Toàn nói.

    Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước, lãi suất cho vay bình quân đối với các giao dịch phát sinh mới của các ngân hàng thương mại ở mức 6,3% một năm, giảm 0,6% một năm so với cuối năm 2024.

    Ngoài những nguyên nhân kể trên, ông Võ Hồng Thắng, Giám đốc Đầu tư của DKRA Group, một công ty chuyên dịch vụ về bất động sản, cho biết trong quý III/2025 nhiều doanh nghiệp lãi lớn nhờ việc ghi nhận doanh thu tài chính thông qua việc chuyển nhượng dự án, hoặc công ty con.

    CTX Holdings – đơn vị có lợi nhuận quý III gấp 108 lần năm ngoái – nhờ việc chuyển nhượng dự án tại khu đô thị mới Cầu Giấy. Ngoài CTX Holdings, nhờ việc bán cổ phần tại công ty con, Hodeco báo lãi sau thuế quý III/2025 đạt 538 tỷ đồng, tăng gấp 40 lần so với cùng kỳ, bất chấp doanh thu thuần chỉ đạt 102 tỷ đồng, giảm 18%.

    Ông Nguyễn Minh Hoàng, Giám đốc phân tích của Chứng khoán Nhất Việt (VFS), đánh giá tình hình kinh doanh của nhóm bất động sản đã phục hồi đồng đều hơn trong quý III, không còn tập trung ở những doanh nghiệp lớn như Vinhomes hay Novaland.

    Chung quan điểm, ông Trần Quốc Toàn nhận định phần lớn sự cải thiện của nhóm ngành này đến từ sự trở lại của nhu cầu ở thực. Ngoài ra, các tên tuổi lớn trong ngành bất động sản nhà ở, với quỹ đất lớn, cũng tận dụng được sự sôi động của thị trường một cách hiệu quả để bàn giao dự án.

    Thị trường bất động sản phía Đông TP HCM. Ảnh: Quỳnh Trần

    Sau kết quả khả quan trong quý III, ông Nguyễn Minh Hoàng cho rằng lợi nhuận của nhóm bất động sản có thể tiếp tục tăng trưởng trong quý cuối năm và năm 2026. “Điểm rơi lợi nhuận của các chủ đầu tư dự án nhà ở có thể rơi vào quý IV năm nay hoặc năm sau”, ông Hoàng nhận định.

    Theo chuyên gia của VFS, lợi nhuận của ngành này sẽ đến từ việc các công ty sẽ tiếp tục bàn giao và phân phối các dự án của họ trong thời gian tới. Theo dự báo của Chứng khoán Vietcap, nhiều doanh nghiệp lớn trong nhóm bất động sản như Vinhomes, Khang Điền, Nam Long, Đất Xanh… có thể mở bán hàng nghìn căn hộ từ nay đến 2027.

    Đồng quan điểm, ông Võ Hồng Thắng cho rằng năm 2026 triển vọng kinh doanh của nhóm bất động sản có thể phục hồi rõ rệt hơn. Chuyên gia này nhận định sẽ ghi nhận kết quả tích cực, khắc phục khó khăn giai đoạn 2022–2023.

    Ngoài việc mở bán thêm nhiều dự án, ông Nguyễn Minh Hoàng cho rằng dòng vốn tín dụng chảy vào thị trường bất động sản cũng sẽ giúp ngành này tiếp tục “ấm” lên. Từ đây, các doanh nghiệp trong nhóm là những đơn vị trực tiếp hưởng lợi.

    Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước, dư nợ tín dụng bất động sản tính đến cuối tháng 8 đạt hơn 4 triệu tỷ đồng, tăng 19% so cùng kỳ, chiếm gần 24% tổng dư nợ nền kinh tế. Riêng cho vay kinh doanh địa ốc tăng cần 24%, gấp đôi đà tăng vay tiêu dùng.

    P/B của một số công ty bất động sản. Ảnh: Mirae Asset

    Ngoài triển vọng lợi nhuận, ông Trần Quốc Toàn cho biết định giá P/B (giá cổ phiếu trên giá trị sổ sách) của nhiều công ty bất động sản vẫn hấp dẫn trong giai đoạn sắp tới, và còn tiềm năng tăng trưởng. Theo dữ liệu của Mirae Asset, P/B của nhiều tên tuổi lớn trong ngành như DIG, DXG, HDC, NLG, PDR, VHM… chỉ khoảng 1-2 lần, thấp hơn trung bình ngành và thấp hơn nhiều so với mức cao nhất các doanh nghiệp từng đạt được.

  • Thủ tướng Doanh nghiệp Việt có thể đầu tư năng lượng sản xuất chip tại Algeria

    Thủ tướng Doanh nghiệp Việt có thể đầu tư năng lượng sản xuất chip tại Algeria

    Thủ tướng Phạm Minh Chính cho rằng doanh nghiệp Việt có thể đầu tư tại Algeria “từ trồng chè đến sản xuất chip” và điều này “rất khả thi”.

    Tại Diễn đàn Kinh tế Việt Nam – Algeria chiều 19/11, Thủ tướng Phạm Minh Chính khẳng định hợp tác kinh tế giữa hai nước là “không có giới hạn, cản trở trên tất cả các lĩnh vực”. Ông tin tưởng mục tiêu xây dựng một “Algeria mới” sẽ có đóng góp quan trọng của Việt Nam, các doanh nghiệp Việt Nam.

    Thủ tướng mong các doanh nghiệp Algeria yên tâm đến đầu tư tại Việt Nam bởi môi trường đầu tư kinh doanh ngày càng thuận lợi hơn. Đồng thời, ông kêu gọi các doanh nghiệp Việt tăng đầu tư sang đất nước châu Phi, để khai thác những lợi thế của nước này.

    “Với vị trí kết nối 3 châu lục, diện tích rộng hơn 2 triệu km2, có sa mạc, biển, điều kiện khí hậu đa dạng, thuận lợi cho phát triển công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ”, ông nói. Theo Thủ tướng, doanh nghiệp Việt có thể đầu tư tại Algeria “từ trồng chè đến sản xuất chip” và điều này “rất khả thi”.

    Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu tại Diễn đàn Kinh tế Việt Nam – Algeria, chiều 19/11. Ảnh: VGP

    Lĩnh vực hợp tác trụ cột đầu tiên được Thủ tướng đề cập là năng lượng. Ông đề nghị Tập đoàn Công nghiệp – Năng lượng Việt Nam (PVN) và các doanh nghiệp khác tiếp tục mở rộng đầu tư tại Algeria trong khai thác, lọc hóa dầu, sản xuất phân bón để xuất khẩu. Ông nhấn mạnh tinh thần “nghiên cứu đầu tư ngay, không chậm trễ”. Bên cạnh đó, hai bên cần thúc đẩy hợp tác năng lượng mới như điện gió, mặt trời.

    Các doanh nghiệp Việt có thể đầu tư vào Algeria trong lĩnh vực nông nghiệp, như trồng chè, chăn nuôi, trồng lúa… , thậm chí công nghệ cao như sản xuất chip bán dẫn, sản phẩm chinh phục không gian vũ trụ. Theo Thủ tướng, Tập đoàn Viettel có thể hợp tác với các đối tác Algeria để sản xuất thiết bị 5G, 6G.

    Ông đề nghị hai bên mạnh dạn giao nhiệm vụ và đặt hàng doanh nghiệp, phát huy vai trò của mọi thành phần, từ doanh nghiệp nhà nước đến tư nhân, nhỏ và vừa, để đạt hiệu quả cao nhất.

    Thủ tướng Phạm Minh Chính và Thủ tướng Algeria Sifi Ghrieb dự Diễn đàn Kinh tế Việt Nam – Algeria. Ảnh: VGP

    Năm 2024, Việt Nam xuất khẩu sang Algeria khoảng 192,3 triệu USD, chủ yếu gồm cà phê, hạt tiêu, kim loại và hóa chất. Ngược lại, Việt Nam nhập gần 6 triệu USD chủ yếu là rau quả, thức ăn gia súc và nguyên liệu từ Algeria.

    Về đầu tư, nổi bật là dự án dầu khí Bir Seba (liên doanh giữa Tổng công ty Thăm dò và Khai thác dầu khí Việt Nam, thuộc PVN với Công ty Dầu khí quốc gia Algeria, Công ty Thăm dò và Khai thác dầu khí Thái Lan) đã khai thác vượt mốc 55 triệu thùng dầu.

    Song quy mô hợp tác vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của hai nền kinh tế và dư địa hợp tác còn rất lớn. Tại diễn đàn, ông Kamel Rezig, Bộ trưởng Thương mại và Xúc tiến xuất khẩu Algeria khẳng định các doanh nghiệp hai nước có nhiều cơ hội hợp tác, trên nền tảng quan hệ chính trị tin cậy và tốt đẹp.

    Ông đề xuất tiến hành các dự án hợp tác chung với tinh thần “cùng thắng”, trong đó có phương án triển khai xây dựng các nhà máy của doanh nghiệp tại Algeria để từ đây, Việt Nam có thể xuất khẩu ra các thị trường khác. Cùng với đó, hai bên phải thiết lập các cơ chế hợp tác dài hạn để củng cố hơn nữa quan hệ đối tác về kinh tế, như có thể thành lập một hội đồng hợp tác kinh doanh Việt Nam – Algeria.

    Ông Kamel Rezig đánh giá, nằm ở vị trí kết nối 3 châu lục (Á – Phi – Âu), Algeria có thể trở thành một trung tâm, cửa ngõ để Việt Nam xuất khẩu hàng hóa sang các khu vực này, trên cơ sở quan hệ Đối tác Chiến lược giữa hai nước.

    Algeria là nước có diện tích lớn nhất châu Phi, dân số 46,6 triệu người. Quốc gia này duy trì ổn định chính trị và đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế.

    Họ là nền kinh tế lớn thứ 3 châu Phi (sau Nam Phi và Ai Cập) với GDP đạt trên 260 tỷ USD, tốc độ tăng trưởng 3,8%. Algeria giàu tài nguyên dầu thô (xếp thứ 16 thế giới về sản lượng, thứ 9 về lượng xuất khẩu) và khí đốt (đứng thứ 4 thế giới về xuất khẩu). Đây cũng là ngành kinh tế chính, chiếm 30% tổng thu nhập quốc nội. Họ cũng đang tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài, khả năng tự chủ về lương thực.

  • Ông Trump có thể hoãn áp thuế sản phẩm bán dẫn

    Ông Trump có thể hoãn áp thuế sản phẩm bán dẫn

    Vài tháng sau khi công bố kế hoạch áp thuế 100% với bán dẫn, Mỹ thận trọng hơn để tránh rạn nứt với Trung Quốc.

    Ngày 19/11, Reuters trích nguồn tin thân cận cho biết các quan chức Mỹ đang thảo luận về việc có thể không áp thuế nhập khẩu với sản phẩm bán dẫn. Vài ngày qua, thông điệp này đã được gửi đến các bên liên quan trong chính phủ và ngành công nghiệp.

    Một nguồn tin khác giải thích rằng chính phủ Mỹ thận trọng hơn để tránh gây rạn nứt mối quan hệ thương mại với Trung Quốc. Vì việc này có thể kéo theo áp thuế trả đũa, gây gián đoạn dòng chảy đất hiếm.

    Dù vậy, các nguồn tin cũng nhấn mạnh quyết định cuối cùng chưa được đưa ra. Mức thuế nhập khẩu 3 con số vẫn có thể bị áp bất kỳ lúc nào.

    Tổng thống Mỹ Donald Trump trong cuộc gặp lãnh đạo các quốc gia Trung Á tại Nhà Trắng ngày 6/11. Ảnh: AP

    Hồi tháng 8, Tổng thống Mỹ Donald Trump cho biết áp thuế 100% với các sản phẩm bán dẫn nhập khẩu, trừ doanh nghiệp sản xuất tại Mỹ hoặc cam kết làm điều này. Vài tháng qua, quan chức Mỹ vẫn khẳng định chính phủ sẽ sớm áp thuế. Tuy nhiên, họ vẫn đang thảo luận về thời điểm và các chi tiết khác của việc này.

    Người phát ngôn Nhà Trắng Kush Desai phủ nhận việc chính quyền thay đổi lập trường. “Chính quyền Tổng thống Trump cam kết tiếp tục sử dụng mọi công cụ hành pháp để mang sản xuất quay về Mỹ, đảm bảo an ninh kinh tế”, ông nói.

    Một quan chức Bộ Thương mại Mỹ cũng khẳng định “không có sự thay đổi chính sách nào liên quan đến thuế nhập khẩu áp với sản phẩm bán dẫn”. Dù vậy, cả hai không nói rõ khi nào chính quyền sẽ hoàn tất thuế này, cũng không đưa ra thêm chi tiết.

    Theo một thống kê năm ngoái, Mỹ sản xuất khoảng 12% chip bán dẫn trên toàn cầu, giảm so với mức 40% của 1990. Nhiều công ty lớn như Apple, Intel, TSMC… xây dựng nhà máy hoặc công bố các khoản đầu tư lớn cho sản xuất tại Mỹ. Gần nhất, hãng gia công chip lớn nhất thế giới TSMC sẽ xuất xưởng chip 2 nm tại một trong những nhà máy ở Arizona trong năm 2028-2030. Trước đó, công ty Đài Loan đã đầu tư khoảng 100 tỷ USD để xây nhà máy ở đây.

    Hiện tại là thời điểm nhạy cảm với chính quyền ông Trump. Nhà Trắng đối mặt với sức ép ngày càng tăng từ người tiêu dùng, khi mùa mua sắm cuối năm đến gần. Việc tăng thuế nhập khẩu với sản phẩm bán dẫn sẽ khiến giá hàng loạt đồ điện tử tăng vọt, từ smartphone đến tủ lạnh. Hồi tháng 9, chính phủ Mỹ từng cân nhắc kế hoạch áp thuế hàng điện tử dựa trên số lượng chip của từng sản phẩm.

    Tuần trước, Tổng thống Mỹ rút lại thuế đối ứng với hơn 200 loại thực phẩm. Dù vậy, ông vẫn khẳng định thuế không tác động đáng kể lên lạm phát. Từ thời cựu Tổng thống Joe Biden, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Mỹ vẫn duy trì trên mục tiêu 2% của Cục Dự trữ liên bang (Fed).

  • Các cá mập có dấu hiệu tháo chạy khỏi Bitcoin

    Các cá mập có dấu hiệu tháo chạy khỏi Bitcoin

    Các quỹ ETF Bitcoin – phương tiện đầu tư tiền số phổ biến của các “cá mập” tài chính – bị rút ròng gần 2,3 tỷ USD, tạo áp lực cho thị trường.

    Thống kê mới đây của công ty phân tích thị trường K33, Bitcoin (BTC) đã giảm gần 30% so với mức đỉnh thiết lập vào 43 ngày trước. Tính trên cùng khung thời gian này, đây là mức điều chỉnh sâu nhất hai năm qua. Kể từ tháng 3/2017, chỉ có hai đợt giảm giá thấp hơn hiện tại, vào 12/2017 và 4/2021.

    Sáng nay, tiền số lớn nhất thế giới chịu áp lực bán lớn, bị đẩy về sát 88.500 USD một đơn vị. Sau đó, BTC phục hồi và giao dịch quanh 92.500 USD.

    Nhóm phân tích K33 cho biết dòng tiền chảy ra liên tục từ các quỹ ETF Bitcoin là một trong những tác nhân chính và giúp “bổ sung thêm nhiên liệu” cho đợt bán tháo trên thị trường. Theo dữ liệu của Farside Investors, các nhà đầu tư đã rút gần 2,3 tỷ USD từ các quỹ ETF BTC giao ngay được niêm yết tại Mỹ trong năm phiên liên tiếp vừa qua.

    iShares Bitcoin Trust – một trong những quỹ ETF hàng đầu thế giới do BlackRock quản lý – cho biết các nhà đầu tư đã rút khoảng 523 triệu USD vào hôm 18/11. Đây là đợt rút ròng trong một ngày lớn nhất kể từ khi quỹ này ra mắt. IBIT có hơn 73 tỷ USD tài sản, giảm 19% kể từ đầu tháng 10.

    Dòng vốn rút khỏi các quỹ ETF Bitcoin báo hiệu các “cá mập” tài chính lớn đã nhận thấy rủi ro của thị trường tiền số . Bởi đây được xem là phương tiện mở đường cho các tổ chức tài chính lớn đầu tư BTC mà không cần sở hữu chúng trực tiếp. Hai “cá mập” BlackRock và Fidelity – những nhà quản lý tài sản lớn nhất thế giới, đều cung cấp quỹ ETF Bitcoin giao ngay. Trong những đợt tiền số lập đỉnh trước đó, dòng vốn đổ vào các quỹ này là tác nhân lớn hỗ trợ cho thị giá tăng cao.

    Sức ảnh hưởng của các ETF Bitcoin được nhóm phân tích của K33 dẫn chứng bằng việc trong đợt bán tháo hồi quý I, BTC đã tìm thấy đáy tại mức chi phí bình quân (average cost) khi đầu tư ETF, trước khi phục hồi cao hơn.

    Hiện tại, chi phí bình quân của những người nắm giữ ETF BTC là 89.651 USD. Tuy nhiên trong đợt điều chỉnh lần này, Bitcoin có lúc về 89.183 USD, tức đã phá vỡ quy luật thông thường.

    Một mục tiêu khác được nhiều người nhắm đến là chi phí bình quân của Strategy – doanh nghiệp nắm giữ BTC nhiều nhất thế giới – khoảng 74.433 USD. Đây là mức thấp nhất của Bitcoin kể từ tháng 4. Cả hai mức này đều là vùng hỗ trợ tâm lý được nhiều nhà giao dịch chú ý.

    Biểu trưng của Bitcoin và các tiền số khác được đặt trên các tờ đôla Mỹ. Ảnh: Reuters

    Các nhà phân tích cho rằng thị trường đang đối mặt với thách thức lớn khi nhóm nhà đầu tư dài hạn liên tục chốt lời. Bên cạnh đó, sự thận trọng ngày càng tăng giữa các công ty “kho bạc Bitcoin”, những đơn vị từng tăng gom hàng vào đầu năm nay.

    Brian Vieten, nhà phân tích tại Siebert Financial, cho biết các công ty “kho bạc Bitcoin” đã mua gần 50 tỷ USD tiền số lớn nhất thế giới trong năm qua. Gần đây, nhiều trong số họ liên tục bán ra, điều này đè nặng lên kỳ vọng thị trường ngắn hạn với việc mua vào Bitcoin.

    José Torres, nhà kinh tế cấp cao tại Interactive Brokers, nhận định: “Việc thiếu tinh thần đầu cơ đang đè nặng lên Bitcoin”.

    Nền tảng phân tích dữ liệu CryptoQuant cũng cho rằng tiền số chịu sức ép trước làn sóng tích lũy ETF chậm lại và sự thờ ơ của các công ty “kho bạc”. Đây đều là những nhà đầu tư “cá mập” trên thị trường với lượng vốn lớn, tạo ra sức ảnh hưởng cao. Vì thế, kỳ vọng tăng giá của Bitcoin ngày càng bị hạn chế.

    Còn theo công ty phân tích Glassnode, những nhà đầu tư ngắn hạn nhận ra tổn thất với tốc độ nhanh nhất kể từ đợt khủng hoảng FTX . Hiện tại, dòng tiền chảy vào ETF vẫn âm và thị trường phái sinh rung lắc lớn càng làm gia tăng sức nóng cho đợt điều chỉnh này.

    Tiểu Gu (theo CoinDesk , Reuters )

  • Giá xăng dầu cùng giảm

    Giá xăng dầu cùng giảm

    Giá xăng, dầu (trừ dầu hỏa) cùng giảm 30-340 đồng một lít từ 15h hôm nay, sau điều chỉnh của liên Bộ Công Thương – Tài chính.

    Giá xăng RON 95-III (loại phổ biến trên thị trường) giảm 30 đồng, xuống 20.540 đồng một lít. E5 RON 92 cũng hạ 40 đồng, giá mới 19.800 đồng.

    Tương tự, dầu diesel và mazut giảm 40-340 đồng so với cách đây 7 ngày, tương ứng mỗi lít, kg còn 19.820 đồng và 13.730 đồng. Riêng dầu hỏa tăng 350 đồng một lít, lên 20.280 đồng.

    Giá xăng, dầu thay đổi như sau:

    Đơn vị: đồng/lít hoặc kg, tùy loại

    Bộ Công Thương cho biết thị trường xăng dầu thế giới 7 ngày qua chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố như OPEC+ thống nhất tăng nhẹ sản lượng khai thác dầu trong tháng 12, Chính phủ Mỹ mở cửa hoạt động trở lại.

    Các yếu tố nêu trên khiến giá nhiên liệu thế giới tăng giảm tùy mặt hàng so với kỳ trước. Chẳng hạn, mỗi thùng xăng RON 95 bình quân giảm 0,3% xuống 82,4 USD; dầu diesel bớt 0,3%, còn mazut 3,3%.

    Xăng E10 – loại nhiên liệu sinh học pha 10% ethanol vào xăng khoáng – sẽ được phối trộn, bán rộng rãi trên cả nước, từ 1/6/2026. Xăng E5 RON92 vẫn tiếp tục được sử dụng đến hết 2030. Ngoài ra, dầu diesel sinh học B5, B10 chưa bắt buộc phải phối trộn để sử dụng cho động cơ diesel. Tuy nhiên, Bộ Công thương khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia sản xuất và kinh doanh các mặt hàng dầu diesel sinh học này.

    Theo Nghị quyết của Ủy ban Thượng vụ Quốc hội, năm 2026, thuế bảo vệ môi trường với xăng (trừ ethanol) duy trì ở mức 2.000 đồng một lít; dầu diesel, mazut, dầu nhờn 1.000 đồng một lít. Mỡ nhờn là 1.000 đồng mỗi kg, dầu hỏa 600 đồng một lít. Các mức này tương tự áp dụng trong 2025.